Một ngàn dặm

Minh họa V-ART
Cũng hơn ba năm rồi tôi mới gặp lại anh Chính, hình như từ ngày đưa tang mẹ anh đến bây
giờ. Sau mấy lời chào hỏi, anh rủ tôi vào quán nước bên đường. Thấy mấy ông chú cởi trần đang hút thuốc, cười nói khề khà khoe những chiếc răng ố vàng, đoán chắc cuộc trò chuyện sắp tới giữa tôi và anh sẽ không được thoải mái, tôi lắc đầu chỉ về phía công viên nhỏ gần đó. “Hay mình sang bên kia đi anh!”.
Chúng tôi băng qua con đường rải nhựa, đi dọc vỉa hè lát những ô gạch vỡ, rồi ngồi xuống cái ghế đá dưới tán bằng lăng xanh ngát. Anh Chính trông gầy hơn xưa. Anh mặc áo sơ mi cộc tay màu lam nhạt, chân đi đôi dép xốp mòn vẹt. Đôi bàn tay nhỏ nổi những sợi gân xanh, mười đầu ngón dài, móng tím tái đặt ngay ngắn trên hai đầu gối.
Cả hai nhìn nhau, vừa xa cách và vừa ngượng ngùng. Tôi vân vê vạt áo, bối rối không biết mở đầu câu chuyện thế nào, bỗng anh Chính đứng dậy, chẳng nói lời nào đi nhanh về phía những bụi bông trang đỏ rực khuất khỏi tầm mắt tôi. Lát sau anh quay lại, tay cầm cốc nước mía cắm cái ống hút nhựa. Tôi đón lấy, nhẹ nhàng cảm ơn và hút một ngụm nhỏ.
“Anh uống không?”. Tôi chìa cốc nước mía về phía anh.
Anh lắc đầu, nụ cười hiền trôi qua trên đôi môi mỏng. Cặp mắt nâu dưới hàng mi thưa, đôi chân mày nhạt nhìn xoáy vào tôi thật nhanh, rồi nhanh chóng dời đi.
Tôi ngả lưng vào thành ghế, đăm đắm nhìn về dãy nhà lợp tôn chen chúc phía xa. Buổi chiều mùa hè nồng nực và bụi bặm, trời đứng gió, hơi nóng từ mặt đường bốc lên hầm hập. Vô thức, tôi đưa cốc nước lên miệng, nhai nhẹ đầu ống hút như bọn trẻ con. Những năm thơ bé ở quê nhà, mùa hè đến là tôi và anh Chính lại háo hức như ếch đợi mưa rào. Vứt hết sách vở sang một bên, chúng tôi tung tăng ngoài đồng, trèo cây hái trái trong vườn, hoặc chui vào phòng mở quạt máy, nằm trên sàn đọc truyện tranh.
Anh Chính hơn tôi hai tuổi, là con của thím Út tôi với người chồng trước. Theo vai vế, anh phải gọi tôi bằng chị, nhưng chẳng hiểu sao ngay từ phút đầu gặp gỡ, chúng tôi đã xưng với nhau là anh em. Nghĩ cũng lạ lùng, trong số anh chị em bên nhà nội, tôi mến anh nhất, lúc nhỏ đã vậy, sau này lớn lại càng quý hơn. Có lẽ vì tôi thương cho phận anh, bố mất sớm, theo mẹ về ở với dượng ghẻ, sống giữa nơi đất lạ, anh chịu đựng và nhẫn nhục nhiều điều.
Chú Út tôi không phải người dễ tính, có lần từ sân nhà nhìn qua hàng dâm bụt, tôi thấy chú đánh anh bằng chiếc gậy dài. Anh không khóc, chỉ mím môi chịu những cú quất. Khi chú Út vừa khuất bóng, tôi vội chui rào chạy sang. Anh Chính ngồi vùi mặt giữa hai đầu gối, cả người run rẩy như nhành lau trước gió, những vết roi rướm máu hằn trên tấm lưng con nít đen nhẻm. Đứng dưới nắng nhìn anh, mấy ngón chân tôi bấm sâu xuống lớp cát mịn, tự nhiên nước mắt ứa ra.
Năm tôi học lớp năm, anh Chính đã lên lớp bảy, cả hai học khác trường nhưng vì tiện đường nên anh vẫn chở tôi đi học. Một hôm trường tan sớm, tôi đứng trước cổng bày trò nghịch với chúng bạn, đợi anh sang đón mình về. Cả đám rủ nhau chơi trốn tìm, một đứa bạn thua mãi, phải làm kẻ đi tìm tới lần thứ năm thì đâm tức tối, nó bĩu môi bảo tôi, giọng gây sự: “Mày chờ chồng mày chở về à? Chúng mày hợp nhau lắm, sau này sẽ làm đám cưới thật to”.
Thoạt đầu tôi chẳng hiểu gì, đến khi mấy đứa còn lại bưng miệng cười rinh rích, nhao nhao hùa theo thì tôi đỏ bừng mặt. Tôi siết chặt tay, lớn giọng hét: “Không phải như thế! Chúng mày không được nói như thế!”. Chúng nó được thể càng trêu già, có đứa hấp háy mắt, nói rin rít qua hàm răng bị xiết ăn gần hết: “Mày với thằng Chính khác họ, có bà con gì đâu mà không lấy nhau được. Có khi ngủ cùng giường rồi mà chúng tao không biết”.
Tôi tức đến hoa cả mắt, trống ngực đập thình thình như có ai múa lân bên trong. Thấy tôi xấu hổ, chúng nó được đà nói thêm nhiều lời tục tĩu, ghê tởm khác nữa. Căm phẫn trào lên nghẹn họng, không nghĩ ngợi gì tôi nhào đến đấm vào mặt đứa đang cười lớn nhất. Bị đánh đau, nó lồng lên tức tối, vật tôi ngã nhào. Tôi sức yếu chống cự không được mấy đòn, một lát đã nằm sóng soài, áo quần dính đầy cát, tóc tai rối bù, nước mắt chảy ướt má.
Lúc này anh Chính chạy xe đến. Nhìn anh qua những cẳng chân, tôi ngẩng mặt lên gào: “Anh ơi, bọn mất dạy này bắt nạt em. Anh phải cho chúng nó một trận!”. Anh dựng xe bên đường, mặt hầm hầm tiến lại, đám giặc bỏ chạy tán loạn. Tôi chỉ cho anh thằng đầu têu. Thằng này ở lại lớp hai năm, cao gần bằng anh, nó vênh mặt, nhổ nước bọt lặp lại mấy lời gớm ghiếc vừa rồi. Anh cho mấy cái vả nó mới chịu im. Tôi nhào đến muốn đánh phục thù nhưng anh Chính bảo thôi. Hôm ấy ngồi sau xe để anh chở về, lòng tôi dờn dợn một nỗi sượng sùng xấu hổ. Lời lẽ thô tục của đám bạn xấu ầm vang trong tai như còi hú, suốt nhiều ngày liền hễ thấy mặt anh là chuyện ngày hôm ấy lại trở về, nhức nhối và ngứa ngáy.
Anh Chính không giống tôi, vẫn bình thản như thường. Điều này khiến tôi càng khó xử, không sao lý giải nổi cảm giác của mình, mất một thời gian tôi mới thoát khỏi mớ tơ vò bùng nhùng do bản thân dệt nên. Nhưng kể từ đó tôi không chịu để anh chở mình đi học nữa. Ở trường là vậy, chứ còn ở nhà, vào những trưa trốn ngủ, tôi vẫn rủ anh ra gốc khế sau vườn chụm đầu đọc sách, tôi còn vòi anh làm cho mình những con diều giấy, tết những con cào cào bằng lá dừa...
Cứ thế hai năm lại êm đềm trôi đi, cho đến năm tôi lên lớp bảy. Hồi ấy tôi mười ba tuổi, còn anh Chính mười lăm. Một tối nọ, tôi đang ngồi học bài thì có tiếng anh gọi ngoài sân rủ lên xã xem văn nghệ. Tôi chưa trả lời, mẹ đã xỏ dép lẹp kẹp ra hiên bảo anh cứ đi trước, lát bố sẽ chở tôi đi sau. Tôi hậm hực nghe tiếng chân anh xa dần, đợi mẹ trở vào, chưa kịp vùng vằng đã bị mắng phủ đầu. Bà quở trách tôi con gái lớn rồi mà cứ quấn lấy anh họ, dặn dò từ nay về sau không được ở với anh Chính một mình nữa. Bọn con trai dậy thì là chúa tò mò, tôi cũng sắp thành thiếu nữ rồi, liệu mà cư xử cho phải lẽ.
Tôi nghe mẹ nói mà tưởng ai đặt đá tảng lên ngực mình, nỗi xấu hổ ấm ức năm xưa trở về. Cắn chặt môi, tôi cố không cãi lại, đợi mẹ đi khỏi liền gục mặt xuống bàn khóc tấm tức. Anh Chính có lẽ cũng được thím Út dặn dò điều tương tự. Từ ấy trở đi, chúng tôi xa hẳn nhau ra, gặp mặt không dám nhìn nhau, có gì cần trao đổi cũng chỉ nói mấy câu nhát gừng, khô khốc và nhạt nhẽo. Tất nhiên đó không phải là kết quả mẹ tôi mong đợi, khi nói với tôi những lời khuyên dạy kia, bà chỉ muốn tôi ý thức về giới tính của mình. Nhưng muộn mất rồi, sự can thiệp thiếu khéo léo của bà đã dẫn tới kết cục không vui ấy. Cuộc đời này quá nhiều hồ nghi và định kiến, tôi với anh lại trong độ tuổi nhạy cảm dễ bị tổn thương. Những lời cảnh báo như bàn tay nặng nề kéo mỗi người về một hướng. Chúng tôi lặng lẽ đứng trong bóng tối, len lén nhìn nhau, đọc trên gương mặt người kia nỗi ấm ức, tủi hờn.
Rồi thời niên thiếu ấy cũng qua, với nỗi bồi hồi và những mặc cảm không ai giãi bày, không ai biết đến. Tốt nghiệp cấp ba, tôi vào Nam học đại học. Anh Chính bấy giờ hai mươi, làm công nhân cho xí nghiệp giày da ngoài phố. Không còn là hai đứa trẻ buồn bã yếu đuối, chúng tôi có thể đàng hoàng ngồi bên nhau mà không sợ các bà mẹ dè chừng, cấm cản. Nhưng cũng như hai cây thân gỗ được nuôi dưỡng ở môi trường khác biệt, tốc độ trưởng thành không đồng nhất, chúng tôi không nhìn thấy ở người kia những điều trước đây mình tìm kiếm nữa. Nhưng tôi biết, mỗi khi cả hai nghĩ về nhau, tận sâu trong lòng, ký ức không vui ấy vẫn cựa mình day trở. Tôi cố gắng quên, anh cũng không muốn nhớ.
Quê tôi cách thành phố phương Nam gần một ngàn dặm, đi xe khách mất một ngày, đi xe lửa mất một ngày hơn. Cuộc sống xa nhà không làm tôi buồn nhớ mà mở ra trước mắt bao điều mới mẻ. Như con cá nhỏ bơi ra đại dương rộng lớn, tôi nhả những đám bọt li ti trong lòng nước, chiếc đuôi dài quẫy mạnh về quá khứ, đôi vây đung đưa tìm kiếm những triển vọng trong tương lai. Sinh tồn trong biển cả sâu thẳm trôi bồng bềnh những cơ hội và lắng cặn rủi ro, tôi thấy mình sao mà nhỏ bé bất lực.
Nhận bằng đại học, tôi nộp đơn ứng tuyển vào công ty xuất nhập khẩu từng thực tập hồi năm cuối. Công việc nhàm chán và nhiều cạnh tranh hơn dự kiến; quá chán nản trước thực tế nghiệt ngã, nhiều lúc tôi muốn về quê ở với bố mẹ một năm cho khuây khỏa, nhưng nỗi sợ bị bỏ lại phía sau thúc tôi rướn người bước tiếp. Tôi đi mà không biết mình đến đâu, chỉ nhìn những người xung quanh và tiến lên theo quán tính. Lúc này tôi đã hai mươi ba, mùa thu năm ấy mẹ gọi điện bảo về ăn cưới anh Chính. Thím Út bị bệnh nan y sắp chết, trước khi nhắm mắt thím muốn thấy anh gia thất yên bề. Cưới chạy tang nên tổ chức vội vã, tôi mua vé tàu về quê, đến nơi vừa kịp ăn nhóm họ. Sáng hôm sau rước dâu, tiệc cưới vài chục mâm, loa thùng phát hết công suất, tiếng nhạc rền vang dội từng đợt sóng âm vào màng nhĩ tân khách.
Mừng hạnh phúc anh Chính xong, tôi lại tất tả vào Nam, được hơn một tháng thì hay tin thím Út qua đời, nửa năm sau vợ anh sinh con trai đầu lòng, tôi ngậm ngùi nghĩ thế ra anh Chính vừa cưới chạy bầu vừa cưới chạy tang. Cuộc đời đã giáng cho anh những đòn xây xẩm, bố mất sớm, bây giờ mẹ cũng không còn, may mắn một điều là anh đã có gia đình của riêng mình. Những lúc rỗi rãi nghĩ về quê hương, tôi vẫn cầu mong anh hạnh phúc. Nhưng thực tế diễn ra ngược lại với điều tôi mong đợi. Vợ chồng anh thuê trọ ở với nhau một thời gian, cãi cọ sao đó mà vợ anh bồng con về nhà mẹ đẻ. Anh Chính ly thân vợ, bỏ quê vào Nam tìm việc. Biết anh sống cùng thành phố với mình, nhiều lần tôi muốn đi tìm nhưng một cuộc gọi bất ngờ của mẹ đã dời dự định của tôi đến tận bây giờ.
Giống như buổi tối bị mẹ cản đi xem văn nghệ với anh Chính, câu chuyện bà kể qua đường truyền khiến miệng tôi khô đắng. Hóa ra đứa con do vợ anh Chính sinh ra không phải con anh. Buồn chán, thất vọng, anh đuổi vợ đi và sống một mình như hồi chưa cưới. Suốt một năm ở quê nhà, anh nghỉ làm xí nghiệp giày, sống như người bất đắc chí. Thời gian ấy anh qua lại với một phụ nữ góa chồng, người này sau đó theo anh dắt díu vào Nam. Hình như anh và cô ấy bây giờ đang sống với nhau tại một khu trọ nào đó đằng sau dãy nhà tôn bên kia đường. Tôi muốn hỏi anh Chính nhiều điều, nhưng tất cả chuyện ấy đều quá riêng tư và tế nhị để cất thành lời mà không biến tôi thành kẻ tọc mạch.
Thế là chúng tôi lặng lẽ ngồi bên nhau, nhìn buổi chiều dần tan trong bóng tối. Nước mía tôi uống đã hết, chỉ còn lại những viên đá lạo xạo trong cốc nhựa. Đám trẻ chơi đuổi bắt trên vỉa hè hú hét inh ỏi, một chiếc xe bán kem chậm rãi đạp qua, xập xình bài hát về tình yêu bị từ chối. Bỗng nhiên tôi thấy buồn ngủ đến mụ mị, tối qua thức khuya làm báo cáo, sáng nay lại dậy sớm đến công ty nhập hàng, hai mí mắt dính vào nhau, tôi muốn nằm xuống chiếc ghế này đánh một giấc ngon lành, mặc đám muỗi mòng phục kích trong bụi rậm.
“Dạo này em sống thế nào?”. Anh Chính bỗng hỏi, chất giọng quê hương cất lên giữa thành phố miền Nam xa xôi lạc lõng như tiếng đàn trật nhịp.
“Cũng vất vả lắm anh. Nhiều lúc khủng hoảng em chẳng biết nói với ai, tưởng kiệt sức rồi, thế mà cũng gượng dậy được, tiếp tục làm việc, tiếp tục sinh tồn”. Tôi đáp lại bằng thứ giọng phổ thông chuẩn mực, nhìn lướt một bên gò má anh, ngần ngừ hỏi. “Còn anh thì sao, vẫn ổn chứ?”.
“Anh rất ổn. Nói chắc em không tin, nhưng anh hài lòng với mọi thứ hiện tại”.
“Nếu những lời đồn đại em nghe về anh là sự thật, thì đúng em không tin”.
“Ồ, người ta đồn không sai tí nào đâu”. Anh Chính đan hai bàn tay vào nhau, hướng mặt lên bầu trời đang dần tím lại. “Em có nhớ hồi nhỏ từng đọc cho anh câu chuyện về hai người đứng trên cầu xem cá không? Một người nói cá bơi rất vui, người kia mới hỏi làm sao mà biết cá vui...”.
“Em nhớ, hai người ấy là Trang Tử và Huệ Tử. Em không phải là anh, làm sao em biết anh không vui; anh không phải là em, làm sao anh biết em vui hay buồn. Nhưng dù anh có phân trần hàng trăm lần, nhìn anh bây giờ, nói em không đau lòng thì đúng là nói dối”.
“Thế thì em cứ việc đau lòng thôi, cứ nương theo những gì mình thấy, mình tin mà sống em ạ”.
Tôi im lặng không biết đáp thế nào, gió nổi lên cuốn đất cát bay mù mịt, có hạt bụi rơi vào mắt, tôi đưa tay dụi, một hồi tự nhiên bật khóc. Trong túi xách không có khăn giấy nên tôi đành chùi nước mắt vào tay áo. Trời chiều nồng nực, nước mắt, mồ hôi hòa vào nhau mằn mặn dinh dính. Anh Chính không nhìn tôi, lưng khom xuống, khuỷu tay tì lên đầu gối, anh trầm tư dõi theo bóng người lại qua trên con đường nhỏ. Kiên nhẫn đợi tôi nín hẳn anh mới hỏi: “Em khóc cho anh hay khóc cho điều gì vậy?”.
“Em khóc cho em, anh ạ. Mọi giọt nước mắt trên đời này trước hết là rơi vì chính mình, sau mới đến lượt người khác”.
Anh Chính mỉm cười, rất lâu trước đây anh vẫn luôn cười như thế mỗi khi tôi nói những lời triết lý. Nước mắt khô đọng trên má dấp dính ngứa ngáy, tôi muốn rửa mặt nhưng quanh đây chắc không có vòi nước công cộng nào. Chớp chớp rèm mi ướt, tôi hít một hơi sâu: “Anh biết không, thành phố này cách quê mình một ngàn dặm; anh và em giờ đây cũng cách nhau một ngàn dặm”.
“Đơn vị đo lường này giờ đâu còn phổ biến nữa, sao em tính ra được hay vậy?”.
“Em đâu có tính, em ước chừng thế thôi”.
“Thế thì anh cũng ước chừng khoảng cách giữa bọn mình chỉ có mấy gang tay thôi. Anh với em đang ngồi cùng một băng ghế mà”.
Tôi lắc đầu, cố cười mà không cười nổi. Nấn ná thêm một lúc, tôi lấy tay chặm khóe mắt và từ tốn đứng dậy, anh Chính cũng đứng lên theo. Chúng tôi đi men con đường nhỏ, được một đoạn ngắn thì tới ngã ba, rẽ trái đi thêm vài trăm mét nữa là đến điểm chờ xe buýt. Trời chưa tối hẳn nhưng đèn đường đã bật, cái nóng không dịu bớt mà càng tăng thêm cường độ, những giọt mồ hôi chảy sau lưng nhột nhạt như kiến bò. Trở về phòng trọ, việc đầu tiên tôi làm là chui vào buồng tắm.
Trước lúc gặp anh Chính, tôi muốn mời anh một bữa cơm, nhưng thấy mặt nhau rồi thì tôi từ bỏ dự định ấy. Qua những lời trao đổi, tôi biết sau cuộc hội kiến với mình, anh sẽ có một buổi tối giản dị và vui vẻ bên người phụ nữ đang đợi ở buồng trọ, thời gian anh dành cho tôi chỉ có như thế, không nhiều hơn được. Cất giữ trong lòng những toan tính bị hủy bỏ, tôi tạm biệt anh khi chuyến xe buýt chờ đợi hồi lâu cuối cùng đã đến.
Ngồi trên băng ghế nhìn thành phố thắp đèn qua ô cửa, tôi mơ màng thấy mình đang thiếp đi. Dạo này tôi có thể ngủ bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, mí mắt sụp xuống, mọi chuyện sau đó chỉ có trời biết. Không rõ đây có phải là dấu hiệu của một chứng bệnh hay không, có lẽ tuần sau tôi sẽ thu xếp thời gian đến viện làm kiểm tra tổng quát. Thời gian này tôi hạn chế chạy xe máy, ưu tiên sử dụng các phương tiện giao thông công cộng cho những lộ trình dài. Đang giờ cao điểm, đường sá tắc nghẽn, chắc mất vài tiếng nữa tôi mới đến được nơi cần đến. Vậy thì chợp mắt một lúc vậy, mong là tôi kịp thức dậy trước khi xe đi qua điểm dừng của mình.
L.N