Hơn cả tình yêu

Vợ chồng anh chị Đặng Thị Bôn - Phan Văn Lanh
Chị là nữ biệt động thành Đà Nẵng. Anh là người lính từ phía bên kia. Để có được mái ấm hạnh phúc, có được cái nắm tay đi đến cuối con đường, anh chị phải trải qua biết bao gập ghềnh của cuộc đời. Cuộc lương duyên ấy đến tận bây giờ vẫn là nốt son đẹp, đầy thiện cảm trong lòng bao người dân quê Điện Ngọc.
Ngày ấy, ở tuổi mới lớn, chị như một bông hoa đồng nội tươi tắn, yêu kiều, căng tràn nhựa sống. Cái nghèo của một gia đình nông dân vùng cát dường như không mấy tác động được tới vẻ đẹp ngoại hình và tâm tính của chị. Nhiều gia đình có con trai đều mong muốn được chị về làm dâu.
Năm chị mười bốn tuổi, nhà anh đã vội đem trầu cau qua dạm hỏi. Vậy mà vẫn trễ. Trước đó một ngày, cha mẹ chị đã nhận trầu cau của người cùng thôn rồi. Nhà chị ở xóm Đập, nhà anh ở xóm Nà. Cũng cùng thôn, cách nhau có mấy mươi bước chân, vậy mà lỡ nhịp.
Năm đó, mảnh đất Điện Bàn quê chị cũng như cả miền Nam, cuộn xoáy trong máu lửa chiến tranh. Mỹ trực tiếp đổ quân vào miền Nam. Quảng Nam quê chị trở thành mảnh đất “Trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”. Mười lăm tuổi chị tham gia du kích. Mười bảy tuổi chị là chiến sĩ biệt động thành Đà Nẵng. Lúc thì làm giao liên, khi thì chuyển tải vũ khí vào thành. Vẻ đẹp tươi tắn, trong trẻo, nhu hòa ở chị như một tấm giấy thông hành, đủ để lọt qua các trạm kiểm soát gắt gao của địch.
Rồi cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Có lúc chị trực tiếp tham gia đánh trận, vào sinh ra tử, gan lì trong chiến trận và cả những lúc bị tra tấn bạo tàn. Hai lần bị địch bắt, chị trải qua hết nhà lao Hội An, Cam Ranh rồi lại bị giam ở Hội An, cho đến ngày giải phóng quê hương.
Đất nước thu về một mối, chị bước ra khỏi cuộc chiến với những vết thương trên thân thể vì đòn tra của giặc và trái tim đau đớn khi chồng chưa cưới vĩnh viễn không trở về. Anh đã hóa thân vào dáng hình xứ sở. Máu của anh như của bao liệt sĩ khác, đã đổ xuống cho sự sống còn của Tổ quốc hôm nay. Chị lặng im trở về giữa đời thường. Đã từng dấn thân vào cuộc chiến sinh tử của dân tộc, đã trải qua những mất mát thương đau cùng quê hương, trái tim nữ biệt động thành Đà Nẵng ấy lại càng yêu hơn những gì thật bình dị, nhỏ nhoi, chân chất, hiền lành giữa đời. Chị trở về miền quê cát trắng, trở về với những gì thân thuộc nhất của lòng mình.
Còn anh, người lính từ phía bên kia, cuộc đời cũng đầy buồn đau. Vừa bước vào tuổi thành niên, chàng trai chân đất, lơ ngơ, hiền lành ấy đã bị bắt đi lính. Bị đẩy vào vòng xoáy chiến tranh và bất đắc dĩ trở thành kẻ quay lưng với cả quê hương mình. Mỗi lần
về thăm cha mẹ là mỗi lần chạm phải ánh nhìn lạnh lùng của bà con chòm xóm. Ngày hòa bình, mặc dù đã đảo ngũ về với cách mạng trước đó mấy tháng và không bị đi cải tạo như bao người khác, nỗi mặc cảm khiến anh không thể trở lại quê nhà. Anh đưa vợ con lên vùng kinh tế mới. Cuộc sống khó khăn, con cái nheo nhóc, vợ anh bị bệnh nặng rồi qua đời. Nỗi đau mất vợ, nỗi nhọc nhằn mưu sinh nuôi bốn đứa con thơ dại nơi đất khách quê người, cùng những định kiến nặng nề của xã hội sau chiến tranh, đã khiến anh có lúc cảm thấy cùng đường, bế tắc.
Rồi trong một lần về quê, anh gặp lại chị, gặp lại người con gái năm xưa khiến tim anh lần đầu biết rung động, người con gái mà cha mẹ anh đã mang trầu cau qua dạm hỏi nhưng trễ mất một ngày. Ở cái tuổi ngoài ba mươi, chị vẫn như trái chín trên cao. Đẹp mặn mà, đằm thắm, mở lòng trước tất cả trừ tình yêu lứa đôi. Chị đã từng đôi lần từ chối tình cảm của những người theo đuổi. Họ rất tốt, có người có vị trí đáng trọng trong xã hội nhưng tim chị không hề gợn sóng.
Trái tim tưởng chừng đã đóng băng bấy nay của chị giờ bỗng ấm lên khi gặp lại anh. Vẻ khắc khổ, hiền lành, mực thước cùng với cảnh ngộ gà trống nuôi con của anh đã đánh thức nhịp tim yêu trong chị. Từ thương cảm, thấu hiểu, mến phục rồi chuyển dần sang yêu như một lẽ tự nhiên ở đời.
Nhưng rồi sóng gió cũng theo nhịp đập ấy mà mạnh dần lên. Cha chị là người phản ứng quyết liệt trước mối tình quá đỗi éo le này. Làm sao ông có thể chấp nhận được khi con gái mình từng là người lính bên này lại có thể về chung nhà với người từng là lính ở phía bên kia. Khi mà chiến tranh vừa mới đi qua, cách nhìn nhận “bên này bên kia” vẫn còn là định kiến nặng nề trong xã hội thì làm sao có thể dễ dàng chấp nhận được mối tình thuộc dạng “bước qua lời nguyền” ngay trên mảnh đất cách mạng, mảnh đất anh hùng có số liệt sĩ nhiều nhất nước này. Và sâu xa hơn, người cha ấy không muốn con mình chịu khổ khi thấy trước gánh nặng gia đình mà con sẽ mang vác trên vai. Và đâu chỉ có rào cản từ gia đình, sóng gió từ bạn bè, đồng đội, bà con làng xóm cũng theo đó mà dội vào khiến cho đường về một nhà của anh chị thêm gập ghềnh trắc trở. Nhưng rồi tình yêu vẫn vượt lên tất cả. Tình cảm chân thành, đằm sâu của anh và trái tim đầy yêu thương, thấu hiểu, bao dung và quyết liệt của chị đã dần thu phục được lòng người.
Anh chị về một nhà. Các con anh lại được về quê cha đất tổ. Hạnh phúc có được không dễ dàng nên hơn ai hết anh chị càng gắn kết, nương tựa vào nhau cùng nâng niu, gìn giữ. Anh vẫn là trụ cột của gia đình, cần cù làm ăn, tự trọng và tử tế. Chị vừa tham gia công tác xã hội, vừa gắn bó với ruộng vườn, chăm sóc gia đình. Ở tuổi ba mươi hai, chưa một lần sinh nở giờ làm mẹ của bốn đứa con quả thực quá khó đối với chị. Bốn cậu con trai, đứa lớn nhất mới mười tuổi, đứa bé nhất chưa lên hai. Chị vừa nuôi con, vừa học làm mẹ từ thực tế cuộc sống và từ kinh nghiệm của những người từng làm mẹ quanh xóm mình. Chăm cho con cái ăn, cái mặc, tắm rửa, giặt giũ, dạy dỗ, vỗ về giấc ngủ cho con đủ mệt nhoài cả người chưa kể đến những lúc con ốm đau, quấy khóc, hờn dỗi, gây gổ đánh nhau…Chị lặng lẽ lo toan, bù đắp những thiệt thòi, thiếu thốn của các con bằng tất cả tình thương của một người mẹ. Với chị, đó không chỉ là trách nhiệm, là tình thương mà đó còn là niềm hạnh phúc, niềm vui. Vui khi được nhìn các con cười, các con quấn quýt, sà vào lòng gọi “má, má ơi!”. Vui khi được nhìn các con lớn lên từng ngày. Vui khi được nhìn ánh mắt hạnh phúc pha niềm biết ơn của anh. Vui khi được nhận những nụ cười trìu mến, dần dần đồng cảm và sẻ chia của người thân, của bà con lối xóm. Và rồi niềm vui, niềm hạnh phúc lại càng trọn vẹn hơn khi hai đứa con chung của anh chị một trai một gái lần lượt chào đời.
Năm tháng dần trôi, sáu đứa con của chị cứ thế mà lớn lên trong tình yêu thương và sự tử tế. Cuộc sống khốn khó, cơ hàn không thể tước đi sự đầm ấm, thuận hòa trong gia đình chị. Rồi con cái dần trưởng thành, anh chị cũng dần dần đỡ vất vả hơn. Chị lần lượt dựng vợ gả chồng cho các con. Tất cả đều nên người, sống lương thiện, sống có trách nhiệm và rất hiếu thảo. Các con đều có công ăn việc làm ổn định và đều có mái ấm hạnh phúc của riêng mình. Ở vào tuổi chiều muộn của đời người, soi mình vào các con, trái tim chị thanh thản, dịu êm trong nhịp đập bình yên.
Năm mươi năm đất nước liền một dải, bốn mươi ba năm về chung một nhà. Chị là Đặng Thị Bôn, anh là Phan Văn Lanh. Hai người lính cùng quê, từng ở đôi bờ chiến tuyến, giờ vẫn như đôi chim cu sớm chiều bên nhau, trong ánh nhìn yêu mến và đầy ngưỡng mộ của người dân quê Điện Ngọc. Bản tình ca của anh chị với những nốt nhạc yêu thương, bao dung, thấu hiểu, sẻ chia, hòa hợp và thủy chung sẽ mãi là âm hưởng đẹp, hòa giải lòng người, hòa giải dân tộc, thật bình dị mà rất đỗi nhân văn trên mảnh đất này.
T.T.X.T