Một miền thơ lục bát Nguyễn Nho Khiêm

Tập thơ Thềm xưa của nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm
Có những miền xưa mà một đời người bước qua không chỉ bằng đôi chân, mà bằng cả ký ức, yêu thương, mất mát, niềm tin và nỗi nghi ngờ. Thềm xưa (NXB Đà Nẵng 2025), tập thơ thứ bảy của Nguyễn Nho Khiêm, là nơi nhà thơ chọn để dừng lại một nhịp, ngồi xuống với bóng nắng nghiêng chiều và những khúc thinh lặng của thời gian, để đối thoại với chính mình, với cuộc đời, với quê hương và tình yêu.
Tập thơ có 118 bài, viết theo thể thơ lục bát, được chia làm ba phần, nhưng có thể gọi chung là ba “dòng chảy”: dòng hoài niệm, dòng tình tự, và dòng thức tỉnh. Dẫu tách biệt về đề tài, nhưng trong mạch ngầm của thơ là một cảm thức thống nhất: cảm thức của một người từng trải, đứng giữa thềm xưa, nơi giao nhau của quá khứ và hiện tại, để chiêm nghiệm, để khát vọng, để lặng lẽ cất lời.
Trong nhịp sống tất bật, ồn ã và đầy biến động hôm nay, thơ Nguyễn Nho Khiêm hiện lên như một khoảng lặng trầm tĩnh, một nẻo thiền âm, một cõi quay về với những gì sâu lắng nhất của kiếp người. Tập thơ Thềm xưa là kết tinh của hành trình ấy, hành trình thơ, hành trình tâm linh, hành trình yêu thương và truy nguyên gốc gác.
Thơ lục bát của Nguyễn Nho Khiêm chất chứa ký ức và nguồn cội. Nhà thơ là người xứ Quảng. Thơ anh cũng đậm vị của đất, của phù sa, của nắng mưa miền Trung. Dòng thơ hoài niệm trong Thềm xưa là những khúc tâm tình lặng sâu, gợi lên cả một miền quê với những “bờ ao”, “hàng tre”, “ruộng lúa”, “gốc đa đầu làng”, “chiếc bánh bèo trắng gạo quê” hay “chiếc lá bồ đề” trôi trong tiếng chuông chùa. Chẳng hạn, “Viết cho ngày sinh” là một bài thơ nhẹ nhàng, sâu sắc, nhuốm màu thiền tính và triết lý phương Đông. Với thể thơ lục bát mềm mại, ngôn từ giản dị mà tinh luyện, bài thơ không chỉ là một khúc ngợi ca ngày sinh, mà còn là lời chiêm nghiệm về cội nguồn, thời gian, quê hương và hành trình tồn tại. Nó mang lại một cảm giác vừa lắng đọng vừa thanh thản, giúp người đọc tự vấn về chính mình - rằng: ta sinh ra không chỉ một lần, mà mỗi ngày biết sống, biết yêu thương, biết nhớ về gốc rễ - chính là một lần tái sinh.
Xuất bản một tập thơ thuần lục bát là một lựa chọn không dễ, bởi nếu không tinh tế, sẽ rơi vào đơn điệu. Nhưng với Nguyễn Nho Khiêm, lục bát không phải là hình thức, mà là một mạch chảy tự nhiên của tâm hồn, nơi ngôn ngữ dân tộc hòa quyện cùng triết lý sống và tình cảm sâu xa. Câu thơ của anh nhẹ như gió thoảng, nhưng vang rất lâu trong lòng người đọc:
Một trăm con mắt trong tôi
Nhìn hoa thấy quả và chồi xưa sau
(Đôi mắt khác)
Ra vườn chơi với nắng mai
Nghe hơi ấm chảy dọc dài thịt da
(Ra vườn)
Bài thơ “Xem ảnh cũ” là một lát cắt đẹp và đầy xót xa về thời gian: Xem ảnh cũ: nhớ. buồn. mong.../ Ngồi thiền cũng rối bòng bong chuyện nào/ Thôi đành nhóm lửa thật cao/ Bao nhiêu ảnh cũ đốt vào hư không.
Ở đó là tiếng thở dài của một đời người đã đi qua những hoài niệm ấm áp mà chua xót, là nơi thi sĩ không chỉ hồi tưởng mà còn giã từ. Ký ức được soi chiếu qua tâm thế hiện tại, không phải để tiếc nuối, mà để hiểu rõ hơn mình đã đến từ đâu và đã mất đi điều gì.
Không cầu kỳ dụng công, không khoa trương hình ảnh, mà ở đó là một người thơ đang sống, đang thiền, đang yêu, đang nhớ, đang lắng nghe cả thân - tâm - thế giới.
Đọc Thềm xưa, còn có thể nhận ra không gian biểu tượng của ký ức và tồn sinh khá rõ. Thềm xưa, tên gọi của tập thơ, là một biểu tượng đa nghĩa: có thể là thềm nhà tuổi thơ, thềm chùa thiền định, thềm phố xưa trong một tình yêu đã cũ, và cả thềm hư vô mà đời người đứng nhìn bóng mình lặng lẽ đi qua…
Bài thơ “Thềm xưa” cũng là một bài then chốt của tập thơ, thể hiện tinh thần chung: Đêm qua anh đến thềm xưa/ Chờ em ướt bảy cơn mưa sông Trà/… Thềm xưa rêu mọc tình câm/ Bây giờ, sau nữa, bóng râm muốt đường. Chữ “rêu mọc tình câm” là một hình ảnh đẹp và buốt, nó kết đọng cả một quãng đời yêu thương không thể gọi tên, những kỷ niệm lắng đọng đến mức không thể cất lời. Đây không phải là nỗi buồn thông thường, mà là một dạng của chiêm nghiệm, trầm tích, thiền quán.
Thơ Nguyễn Nho Khiêm viết về tình yêu rất nhiều, nhưng không lặp lại mà rất đa tầng. Có khi anh viết đầy gợi cảm: Chiều qua tắm biển Mỹ Khê/ Hỏi con sóng trắng dội về từ đâu? (Tắm biển); Hoặc ngập tràn nhục cảm của nude nghệ thuật, nhưng luôn thanh: Nude trong rừng vắng ngàn xưa/ Rừng hoa suối ngọc thượng thừa nguyên sinh (Tình cờ gặp nhiếp ảnh gia Thái Phiên). Đôi khi lại là tình buốt đau, nhưng không oán trách: Vết thương: ngọt. rát. thơm. nồng/ Mùa thu, mưa lạnh, cầu vồng nối hương (Vết thương). Tình yêu trong thơ anh không tách rời đời sống tâm linh và thế giới siêu hình, như trong bài “Giấc mơ bay”: Giấc mơ bay thấu cơn đau/ Tình chưa chớm nở đã nhàu màu hương/ Hình như tình hóa giọt sương/ Bàng hoàng mây trắng quấn thương trắng trời. Và kết thúc là một thi ảnh đắt giá, mang đậm chất siêu thực mà rất thơ Việt.
Ở Thềm xưa, người đọc còn bắt gặp chất thiền và triết lý sống ẩn sau từng câu chữ trong một số bài thơ. Không khó để thấy tư tưởng thiền quán - duy thức hiện sinh - hiện diện trong nhiều bài. Nhưng điều hay ở Nguyễn Nho Khiêm là anh không lý thuyết hóa, mà để cho thơ thấm thiền một cách tự nhiên như hơi thở. Bài “Thiền” là một minh chứng rõ nét: Cây đa thiền núi, núi thiền/ Một vùng chim chóc, một miền lá hoa/… Thong dong giọt nước thiền mây/ Mây thiền nắng mỏng mưa dày trong tôi. Đó là thiền trong đất trời, thiền trong thơ, và thiền trong cả cách anh lắng nghe thế giới. Đọc thơ Nguyễn Nho Khiêm là được mời gọi vào một thế giới không cần tìm kiếm chân lý, mà chỉ cần an trú trong cảm xúc lặng thầm.
Thềm xưa không chỉ là chỗ tựa của hoài niệm và yêu đương, mà còn là nơi để nhà thơ ngồi lại suy nghiệm về cõi người - cái cõi “nông nổi” mà cũng “thâm trầm”, vừa “vui vui sầu sầu”, vừa “nắng nổi cơn mưa dầm”. Bài thơ “Đứng một chân” là một ví dụ độc đáo cho dòng thơ thiền - triết trong tập: Co chân, nhắm mắt. Một, hai.../ Hai mươi, hăm mốt... mốt mai tan về. Chỉ trong vài câu ngắn gọn, thi sĩ nói lên cả một cảm thức hiện sinh. Cuộc đời là một thăng bằng mong manh, và người thơ - như bao kẻ khác - đang tập bước giữa cõi tạm. Nhưng thơ thì không tạm. Thơ là nơi để người đứng vững, để sống tiếp, để vượt qua “thời gian dài tận vô cùng”.
Bên cạnh đó, những bài như “Lửa”, “Chạy”, “Mùa đông”... chất chứa những day dứt xã hội, những ám ảnh về tha hóa, dịch bệnh, biến động. Chúng cho thấy một nhà thơ không quay lưng với hiện thực, mà biết “ngồi yên sống chết bắt đầu từ quê” - như anh đã viết.
Quê hương chính là miền trở về bất tận của biết bao thi sĩ. Với Nguyễn Nho Khiêm, anh có cách diễn đạt của riêng mình. Tôi thích những câu thơ viết về người thơ trở về không gian làng quê không phải để hoài niệm khô cứng, mà để giao cảm sâu sắc với đất, nước, cỏ cây, mẹ cha và tuổi thơ. Có bài thơ giản dị đến rơi nước mắt: Bây giờ ngồi nhớ cố hương/ Nhớ đĩa cà tím dầm tương mấy mùa (Bây giờ). Hoặc bức chân dung cha già đầy xúc động: Cha tôi ngồi ngắm tuổi già thương con/ …/ Tôi nhìn cha chặng cuối cùng/ Cảm trong trời đất rưng rưng đời người (Nhìn cha).
Cả những bài thơ như “Cánh diều quê”, “Bếp của mẹ”, “Ăn bánh bèo ở làng Phú Bông”... của anh đều chan chứa một thứ tình quê mặn mà, tuy tự sự, nhẹ nhàng gợi, nhưng thấm tận đáy lòng người đọc.
Tình yêu trong Thềm xưa không ủy mị, không bi lụy, mà dường như luôn song hành cùng sự tỉnh thức và trắc ẩn. Đó là tình yêu say đắm nồng nàn và nhân hậu. Thi sĩ yêu một người, nhưng cũng là yêu một dáng hình của nhân gian, của hư vô, của sự sống mong manh. Có lúc tình yêu đến từ một ánh mắt: Em nghiêng đôi mắt giếng sâu/ Anh ôm ngực trái rót câu thơ hồng (Vết thương); Có lúc tình yêu là nỗi đau không thể gọi tên, là nỗi nhớ buốt trái tim đau một mình (Ngồi nhớ thương nhau). Nhưng dù ở hình hài nào, tình yêu trong Thềm xưa vẫn luôn mang một vẻ đẹp trầm lặng, hiến dâng và vượt lên sự hữu hạn.
Những bài thơ tình trong tập này đậm chất nhạc, giàu hình ảnh, và có thể xếp bên cạnh những khúc lục bát đặc sắc của thơ Việt đương đại. Chúng là tình nhưng không chìm trong tình; là lửa nhưng không thiêu đốt, mà sưởi ấm người đọc bằng nhân tính.
Một điểm sáng nữa của Thềm xưa là tính địa phương, không phải như giới hạn, mà như một chất liệu để tạo nên tính phổ quát. Những địa danh như Sơn Trà, Mỹ Khê, Giáng La, Thu Bồn, Cửa Tùng, Tam Giang, Tà Xùa, Bà Nà, Cần Thơ… hiện lên như những tọa độ cảm xúc, nơi thi sĩ ký thác không chỉ tình yêu quê hương mà còn là bản đồ thi ca của tâm hồn. Nhiều bài thơ mang tính gợi tưởng văn hóa - lịch sử, như: “Ma nhai” gợi nhắc một di sản ngàn năm của Non
Nước; “Thăm vườn An Hiên” là hồi cố một chốn xưa cố đô với giấc mộng và hương xưa; “Ăn bánh bèo ở Phú Bông”, “Với uất kim hương”: vừa hiện thực vừa lãng mạn, chuyển hóa trải nghiệm thành thi ảnh… Như thế, dù là những chi tiết rất riêng, thơ Nguyễn Nho Khiêm vẫn khơi gợi đến những mạch chảy lớn: về thân phận, về tình yêu, về lịch sử, về đời sống tâm linh trong xã hội đương đại đầy những tan vỡ và kiếm tìm.
Thềm xưa là một tập thơ lục bát một thể thơ truyền thống của dân tộc, nhưng được thổi vào một tinh thần mớ Nếu lục bát trong ca dao dân gian là nhịp của làng quê và tâm tình mộc mạc, thì trong Thềm xưa, nó trở thành một dòng chảy linh hoạt, có lúc ngân nga như kinh thiền, có lúc hẫng hụt, vỡ ra thành tiếng thở dài, tiếng gọi mơ hồ: Mắt nhìn thăm thẳm âu lo/ Bây giờ ngồi nhớ ta vò nát ta! (Bây giờ). Nguyễn Nho Khiêm là người giữ nhịp rất vững, tiết tấu linh hoạt, hình ảnh phong phú và nhiều tầng lớp ngữ nghĩa. Câu thơ lục bát của anh không còn bó hẹp trong những chất liệu cổ truyền (trầu cau, mái đình...), mà trải ra một không gian rộng hơn: có biển, có phố, có rượu vang, có Hạ Long, Sơn Trà, Paris, Mỹ Khê, Tà Xùa... Điều đó khiến thơ anh vừa thấm đẫm hồn quê, vừa vang vọng tiếng đời hiện đại. Nhiều hình ảnh trong thơ Nguyễn Nho Khiêm có sắc thái tượng trưng, siêu thực, có lúc mơ hồ như bóng trăng trên sóng, nhưng luôn neo lại bằng một cảm xúc thật, một rung động thật. Những bài như “Trăng biển”, “Biển đùa”, “Mưa ngâu”, “Thao thức biển” là kết tinh của ngôn từ sống động và tư duy thơ thấm đẫm trực giác.
Nguyễn Nho Khiêm là nhà thơ của hình ảnh thơ mới mẻ. Đó không phải loại hình ảnh ồn ào, mà là những ẩn dụ đầy hàm nghĩa, chẳng hạn: Mắt ai ướm một lời thề ngang môi (Rét chiều); hoặc Phiêu bồng con mắt rất xa/ Nhìn tôi và thấy như là bóng tôi (Con mắt phiêu bồng); hay Người đi, biết có phù vân?/ Ngày mong tháng nhớ lặng thầm xót xa (Tiễn) và Ra vườn chơi với cỏ hoang/ Nằm nghe mạch đất chảy ngang biển dài (Ra vườn)… Thi ảnh trong thơ anh thường kết tinh từ trực giác - thiền định - và cảm quan hiện sinh, gợi mở nhiều tầng nghĩa, khiến người đọc không đọc một lần là hiểu hết, mà phải “ở lại” với câu thơ, sống cùng nó.
Thềm xưa không phải để đọc nhanh mà để đọc chậm, để sống cùng thơ. Mỗi bài thơ là một giấc mơ, một nỗi niềm nhân sinh. Dẫu nói về biển, tình, cha mẹ, quê nhà, hay bản thân thi sĩ… Nguyễn Nho Khiêm không viết thơ để làm người ta trầm trồ vì thủ pháp. Anh viết bằng cả tâm hồn, sống như một người mang thơ trong từng tế bào, như từng câu mà anh viết: Một lần rượu chảy vào đêm/ Là vầng trăng mọc từ em nồng nàn (Một lần). Hoặc: Thời gian dài tận vô cùng/ Đời người nối chết vẫy vùng cõi sinh (Đứng một chân).
Tập thơ Thềm xưa là thềm chạm của chữ và đời, của thơ và đạo, của cảm và thức, một tiếng chuông nhẹ ngân trong lòng thơ Việt hôm nay, thinh lặng mà vang sâu. Nguyễn Nho Khiêm, bằng tiếng thơ lục bát của mình, đã làm sống dậy một miền thềm cũ không chỉ của riêng anh mà còn là thềm chung của những ai mang trong mình hoài niệm, khát vọng và niềm tin vào cái đẹp.
L.B.D