Nhớ Kazik

Kiến trúc sư Kazik
Trong những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, kiến trúc sư người Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997), thường được gọi với cái tên thân mật là Kazik, là Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy ban Việt Nam - Ba Lan trùng tu di tích Chămpa. Tôi đưa ông đến Hội An lần đầu bằng con đường rẽ Cẩm Hà, dọc sông Thu Bồn, để tìm cảm hứng.
Vừa đến phố cổ, Kazik bỗng đứng sững người, không nói câu nào - đúng kiểu “đứng hình”, như ngôn ngữ bây giờ. Kazik xúc động lang thang trong phố, không cần ai giới thiệu, chỉ lâu lâu hỏi nhỏ: “Còn nguyên vẹn chứ?”. Được trả lời còn nguyên vẹn thì Kazik nhún vai. Khi đến một ngôi nhà có bảng rao bán, ông hỏi giá bao nhiêu. Tôi nói 10 cây vàng và tính ra tiền thời đó. Kazik nói ngay: “Mua đi, một người không đủ tiền thì góp nhau lại mà mua”. Sau này khi đưa các nhà văn Nguyễn Trọng Oanh, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải thăm Hội An, tôi có nói lại ý của Kazik. Anh Nguyễn Khải nói: “Nếu tớ có tiền thì tớ sẽ mua những nhà hiện đại bên ngoài để nhìn phố cổ. Tớ ở bãi Phúc Xá chật chội giờ mua những nhà này thì lại ở lụp xụp như Hà Nội à”.
Bây giờ những căn nhà ấy có giá hàng triệu đô la.
Suốt ngày hôm đó, Kazik lang thang khắp Hội An. Ông đặc biệt thích thú đi vào các con hẻm nhỏ rêu phong, tìm đến các giếng cổ của người Chăm, đêm đến vẫn không chịu về Đà Nẵng. Chúng tôi ghé quán cà phê của nhạc sĩ Hoàng Tú Mỹ để ăn tối. Vợ chồng nhạc sĩ thấy tôi dẫn một ông Tây vào thì rất ngạc nhiên vì thời ấy ở Hội An chưa có khách Tây. Vợ chồng nhạc sĩ đãi chúng tôi một bữa cơm rồi nhanh chóng biến thành cuộc nhậu, ca hát thâu đêm. Đến ba giờ sáng thì công an hỏi thăm. “Ông này là người nước nào, có phải gián điệp Mỹ không?”. Tôi trả lời là đồng chí Ba Lan, phe xã hội chủ nghĩa. Hình như mấy người kiểm tra chưa biết Ba Lan là gì, có vẻ nghi ngờ. Kazik chỉ vào mình nói: “Liên Xô”. Tôi nói tiếp: “Đồng chí này đến giúp Hội An tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Kazik tủm tỉm cười. Họ bớt nghi ngờ hơn nhưng cũng ra lệnh cho chúng tôi về lại Đà Nẵng, vì chỉ có Đà Nẵng mới cho người nước ngoài tá túc qua đêm. Hồi ấy các rạp đang chiếu bộ phim Ba Lan “Thầy lang”. Nhân vật trong phim rất giống Kazik, nên khi ông đi trên phố trẻ con réo: “Thầy lang…”. Kazik đáp lại: “Liên Xô”, rồi tủm tỉm cười. Cũng như anh em đưa thuốc lá Đà Lạt cho Kazik, ông lại gọi là Đắk Lắk.
Nhiệm vụ của Kazik là ở Mỹ Sơn, là các tháp Chăm chứ không phải ở Hội An. Nhưng khi tiếp cận đô thị cổ này, Kazik lại gắn bó sâu sắc đến lạ. Ông thường nói với chúng tôi Hội An là kho báu của nhân loại, chúng mày phải ra sức giữ gìn nó. Ông viết hàng chục bài báo trên các diễn đàn thế giới. Ông tư vấn cho các dự án tu bổ giữ gìn Hội An. Năm 1985, khi tôi còn làm việc ở Nhà Xuất bản Đà Nẵng, Kazik đã tư vấn xuất bản cuốn “Hội An đô thị cổ” bằng nhiều thứ tiếng. Ông tham gia làm hồ sơ để năm 1999, Hội An được công nhận là Di sản Văn hóa thế giới. Để nhớ ơn ông, Hội An đã dựng phù điêu vinh danh Kazik ở trung tâm phố cổ. Tôi được mời viết mấy câu dưới phù điêu ông. Nhưng không hiểu sao người ta lại bỏ đoạn nói việc Kazik đã phát hiện ra vẻ đẹp không trùng lắp của Hội An, trong bài viết chỉ khoảng 100 từ.
Bà Wolf (tôi quên họ của bà, hỏi những người cùng làm việc với bà họ cũng chưa nhớ ra) là đại diện cho Hội Ái hữu Văn hóa Chămpa - Cộng hòa Liên bang Đức, tức Tây Đức cũ. Bà đến Đà Nẵng và nêu yêu cầu được vào Mỹ Sơn. Hồi đó, Mỹ Sơn còn nhiều mìn. Sáu người đã hy sinh khi tháo gỡ bom mìn để lấy hiện trường trùng tu di tích. Kazik thì vẫn ở Mỹ Sơn, cuối tuần mới về khách sạn Đông Phương, khách sạn tốt nhất Đà Nẵng hồi đó. Ủy ban tỉnh không muốn bà Wolf đi Mỹ Sơn vì quá nguy hiểm, hơn nữa bà lại bị tật một chân. Người duy nhất có thể thuyết phục bà từ bỏ ý định chỉ có Kazik. Văn phòng Ủy ban tặng Kazik một chai Napoleon V.S.O.P với một điều kiện nhỏ: thuyết phục bà Wolf đừng đi Mỹ Sơn. Kazik nhận lời và nhận rượu về đãi anh em. Không ai biết Kazik đã nói gì với bà Wolf trong buổi gặp hôm sau, chỉ biết rằng bà càng kiên quyết hơn, nhất định phải đi Mỹ Sơn cho bằng được. Ủy ban không thể từ chối, phải tổ chức cho bà đi Mỹ Sơn. Khi chúng tôi hỏi Kazik đã nói gì với bà Wolf, Kazik chỉ cười. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng mất toi chai rượu.
Ở Mỹ Sơn, Kazik làm việc quần quật suốt ngày. Ông chui vào các tháp cổ để khảo sát. Có lần, một chuyên gia khảo cổ nói trong tháp ngày trước có chứa vàng, sau đó người ta lấy mất. Kazik vỗ vỗ vào tường tháp: “Đây mới thật là vàng”. Ông lang thang dọc con suối, nhặt từng viên gạch Chăm, suy nghĩ xem chất kết dính của nó là loại hồ gì, rồi nghĩ ra các phương án trùng tu. Trường phái trùng tu của Kazik là không bao giờ tái hiện như thật những gì đã mất mà chỉ giữ chắc những gì còn lại. Nếu phải dùng các cấu kiện để
Kazik cùng tác giả và bạn bè trên sông Thu Bồn
không làm di tích sụp đổ thì phải làm cho người ta biết đó là cấu kiện người đời sau làm. Các xã viên cùng tham gia trùng tu ở Mỹ Sơn, thấy Kazik hết mình như vậy cũng làm việc quần quật như ông. Một lần, Kazik nói nếu cứ làm việc như chúng ta thì không những xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mà còn tiến thẳng lên chủ nghĩa tư bản. Câu này ông dùng tiếng Anh có not only… but also đàng hoàng.
Nhưng đêm đến, Kazik lại nghĩ ra các trò để tiêu khiển làm ai cũng bất ngờ. Một đêm, Kazik đề xuất thi nấu nước sôi pha trà. Nguyễn Trọng Bảo, hướng dẫn viên du lịch, người rất thân Kazik từ nhiều năm trước, ứng thi. Anh xuống suối lấy nước, tìm củi khô, chẻ nhỏ rồi nhóm bếp. Để cho Bảo đun trước mấy phút, Kazik mới lấy cái ăng-gô chuẩn bị trước cùng một bó tranh. Ông để ăng-gô đậy nắp kỹ rồi bỏ vào giữa bó tranh châm lửa.
Tất nhiên là Kazik thắng. Mỗi ngày Kazik có tiêu chuẩn một chai . Khách đông ông moi nền kho rút từ dưới đất ra thêm một chai mời khách, uống xong lấy nước suối đổ vào đậy nắp rồi để vào kho, lớp trên cùng. Buổi sáng đến nhận rượu, ông chỉ vào chai nước suối, cô thủ kho vui vẻ đưa cho Kazik. Kazik mở nắp đưa lên mũi ngửi rồi đưa lại cho thủ kho ngửi. Cô lấy chai khác đưa cho Kazik và cả ngày lăn tăn mãi việc làm sao lại có chai rượu nhạt thế. Nói chung các trò này Kazik bao giờ cũng thắng nhưng có một lần ông thua. Họa sĩ Lưu Công Nhân lên Mỹ Sơn ở với Kazik cả tháng. Ai làm việc nấy. Nhưng một ngày Lưu Công Nhân làm gì thì Kazik bắt chước làm theo. Họa sĩ đặt giá vẽ, Kazik cũng vẽ. Họa sĩ đọc sách, Kazik cũng đọc sách. Trò chơi cả ngày như vậy Lưu Công Nhân không chịu được, ông đành chạy xuống suối. Kazik chạy theo cho đến khi họa sĩ cởi hết quần áo, hoàn toàn khỏa thân thì Kazik giơ hai tay đầu hàng.
Khách đến Mỹ Sơn ngày càng nhiều, chủ yếu là các nhà khoa học, các chuyên gia trùng tu chứ chưa có khách du lịch như bây giờ. Hồi đó điều kiện sống ở Mỹ Sơn rất đơn giản, có thể nói là hoang sơ. Một đoàn khảo cổ người Pháp đến Mỹ Sơn, ông trưởng đoàn hỏi nhà vệ sinh ở đâu. Kazik đưa cho ông một cái cuốc, khoát tay một vòng khắp thung lũng nói: toute liberté (hoàn toàn tự do).
Ngôn ngữ để giao tiếp với mọi người của Kazik là bằng các thứ tiếng Ba Lan (tất nhiên), Anh, Pháp, Nga, sau này là tiếng Việt. Họa sĩ Lưu Công Nhân giao tiếp trôi chảy với Kazik bằng tiếng Pháp, nhưng ông lại nói đối với Kazik nên nói ít và tốt nhất là không nên nói gì. Hai ông ngủ trong một lán, giường kê gần nhau. Tối đến chơi trò ném gối, ném qua ném lại cái gối với nhau cho đến khi lăn ra ngủ, chẳng nói tiếng nào.
Anh Phú phụ trách các xã viên hợp tác xã Duy Phú vào tham gia trùng tu, được Kazik phong lên giám đốc khách sạn ngàn sao Mỹ Sơn với số máy 000…, thịt một con chó mời Kazik. Kazik rủ tôi cùng ăn, dù hồi ấy tôi đã không ăn thịt chó. Kazik năn nỉ: “Ông cứ ăn để tôi có việc nói với mọi người”. Kazik ăn nhiệt tình, ăn cả tiết canh. Tàn cuộc khi uống trà, Kazik nói: “Tôi đi trùng tu khắp thế giới khi về nhà vợ con có khi vui, có khi không vui, khi niềm nở khi nhạt nhẽo, chỉ có con chó là bao giờ cũng vui mừng. Cho nên các ông không nên thịt chó”. Từ đó anh em tham gia trùng tu ở Mỹ Sơn không ăn thịt chó nữa.
Nhà tôi có chiếc ô tô cũ, “năm cha bảy mẹ”, khung xe Fiat máy Toyota, chưa có biển số. Tôi nói với Kazik có đi chùa không? OK. Thế là Kazik lái xe xuống chùa Tam Thai đón Hòa thượng Thích Trí Giác vào Núi Thành khánh thành một ngôi chùa. Đến nơi Phật tử lại dán lên kính xe một lá cờ Phật. Về đến Vĩnh Điện thì bị công an giao thông dừng xe. Khi Kazik vừa đỗ xe, tôi lặng lẽ mở cửa sau lẻn ra ngoài, đứng bên một hiệu thuốc quan sát. Công an chào Kazik rồi nói: “Xe này không có biển số, dán cờ Phật lại do người nước ngoài lái, phạm nhiều điều luật”. Kazik trả lời anh công an bằng tiếng Ba Lan trong khi Hòa thượng Trí Giác nhập định. Nói qua nói lại không ai hiểu ai nói gì. Lòng kiên nhẫn của công an có hạn nên vẫy xe cho đi. Xe chạy khoảng trăm mét Kazik dừng lại chờ tôi. Sau khi đưa Hòa thượng về chùa Tam Thai, chúng tôi ghé vào một quán nhậu. Hôm ấy uống hơi nhiều vì có món mồi là vụ công an dừng xe. Phải nói là Kazik lái xe quá xịn, cái cổng nhà tôi chỉ khoảng hai mét mà ông cho xe vào thật gọn gàng. Khi thấy chúng tôi có phần lảo đảo vào nhà, con gái tôi lúc đó 8 tuổi đã réo lên: “Bố Lợi xỉn rồi, bác Kazik xỉn rồi”. Kazik réo còn to hơn: “Bố Lợi không xỉn, bác Kazik không xỉn, ô tô nó xỉn”.
Một trong những bút ký bằng tranh của Kazik
Sau đó nhà tôi bán chiếc xe được 15 triệu. Kazik nói nên dùng số tiền ấy tổ chức ăn mừng vì đã bán được xe.
Trong những năm tháng lăn lộn với tháp Chăm ở miền Trung, ở Mỹ Sơn lâu lâu Kazik lại ra Huế. Đó là những lần UNESCO nhờ ông tư vấn về một vấn đề nào đó. Một hôm, từ Huế về, Kazik hồ hởi nói: “Sắp có tiền nhậu rồi, UNESCO sẽ trả tiền công thuê tôi tư vấn”. Nhưng vài ngày sau Kazik buồn xiu báo tin tiền ấy họ đã chuyển về Ba Lan cho vợ ông. Tất cả anh em đều cười. Không sao cả, việc nhậu của Kazik không phải là chuyện gì lớn lao. Ở Huế chỉ cần bèo, nậm, lọc và rượu làng Chuồn là được. Còn ở Đà Nẵng thì đã có sẵn rượu gạo với vô vàn nem tré và các thứ đồ nhậu bình dân. Kazik dùng được tất cả các thứ đó.
Năm 1997, Kazik được tài trợ từ Ba Lan để trùng tu Thế Miếu. Nghe nói ông với thủ tướng Ba Lan là bạn nên ông hỏi Việt Nam còn nợ Ba Lan bao nhiêu? Sau khi đã trừ các khoản viện trợ không hoàn lại, Việt Nam còn nợ Ba Lan số tiền không lớn lắm. Kazik nói với bạn là ông sẽ đòi được số tiền đó.
Thủ tướng rất hoan hỉ nhưng Kazik lại nói: “Tôi đòi được thì ông hãy viện trợ số tiền đó để Việt Nam trùng tu Huế”. Thế mới có dự án trùng tu Thế Miếu. Lần này Patech, con trai Kazik, là kiến trúc sư sang làm việc cùng cha. Hai cha con lại miệt mài lao động, cật lực ngày đêm, không phải với các xã viên ở Mỹ Sơn mà với các tốp thợ lành nghề mộc, đá từ Nam Định, Bắc Ninh vào.
Vào khoảng 3 giờ chiều ngày 19 tháng 3 năm 1997, Patech không thấy cha ra công trường. Anh quay về khách sạn Thành Nội gần đó thì Kazik đã mất sau một cơn nhồi máu cơ tim. Cái chết của ông làm sững sờ không chỉ với giới khảo cổ, trùng tu, các kiến trúc sư và các nhà khoa học lịch sử mà đến cả những người dân miền Trung, người dân Đà Nẵng, Huế dù chỉ mới gặp Kazik một lần hoặc chỉ mới nghe tên ông. Nhiều người đã khóc. Tôi hiểu rằng khó có người nào thay thế được ông trong tâm khảm của mình. Kazik là người hiếm có khó gặp trong đời này.
Di hài Kazik được quàn ở nhà Tả vu trong Đại nội trước khi chuyển về Ba Lan. Tôi nói với kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, Tả vu và Hữu vu vốn là nơi làm việc của các đại thần triều Nguyễn. Anh Kính trầm ngâm, lấy khăn lau giọt nước mắt lăn trên má: “Họ Kwiatkowski là họ quý tộc bên Ba Lan”.
Không biết dòng dõi Kazik có tước vị gì, Công, Hầu, Bá, Tử… nhưng ít nhất cũng là Nam tước. Nam tước Kazik.
T.B.L