Dưới vòm hoa vu vơ

Minh họa Hồ Đình Nam Kha
Làng Đông nằm ở cuối thôn Hoa. Đường thôn, đường xã được bê tông hóa, trồng hoa hai bên, nhiều nhất là hoa giấy, đủ màu rực rỡ. Quán cà phê Bách Đạt ở cuối đường rẽ vào miếu Thành hoàng, giàn hoa trước quán tuy chưa trổ hoa nhưng tươi tốt, phủ xanh một góc nhỏ rất đẹp mắt.
Bách Đạt đã vào hàng ngũ thập tri thiên mệnh, là dân làng Đông chính gốc nhưng chỉ mới về đây ở chưa được ba năm. Cà phê Bách Đạt đông khách hơn hẳn những quán khác trong xã, không chỉ vì có “hai món khuyến mãi” là sách và cờ tướng, mà còn vì những giai thoại ly kỳ, những câu chuyện đầy bí ẩn về cuộc đời của chính chủ quán.
Thuở còn học phổ thông, Bách Đạt bướng bỉnh, cứng đầu cứng cổ. Hễ thấy chuyện gì trái ý mình là nhảy vào can thiệp gây gổ đánh nhau, nhiều đứa sợ, nhất là bọn con gái. Thế nhưng, trái ngược với cái thô lỗ ấy, trong lớp Bách Đạt học giỏi các môn, vì thế cũng có một nhóm bạn ngưỡng mộ, trong đó có tôi. Học hết cấp ba, chúng tôi chia tay, mỗi đứa mỗi ngả, tôi vào thành phố, bạn ra Huế. Sau khi tốt nghiệp đại học, mỗi người mỗi hoàn cảnh, thỉnh thoảng mới gặp nhau, nhưng cũng thoáng qua. Khi tôi lập gia đình về quê ổn định công việc, thì Bách Đạt đã bỏ quê đi tự bao giờ.
Dân làng ai cũng biết, tiền bối tộc họ nhà Bách Đạt là những người lập làng, là tiền hiền của làng. Trên tấm bia trong miếu Thành hoàng có khắc rõ điều ấy, nên con cháu họ luôn ý thức và tự hào về nguồn cội của mình. Cha Bách Đạt, trưởng tộc, bị bạo bệnh qua đời khi Bách Đạt mới vừa tốt nghiệp đại học. Dự định trở lại Huế không thành, phần vì mẹ phải sống một mình, phần vì gia tộc yêu cầu Bách Đạt phải thực hiện nhiệm vụ mà cha đảm nhận là tộc trưởng, là ông trẻ của tộc. Vì cái di sản thiêng liêng vẽ vời, cái công việc tưởng cụ thể mà viển vông, Bách Đạt miễn cưỡng chấp hành ý kiến của hội đồng gia tộc.
Ngay năm đầu, Bách Đạt đã bị sốc vì mấy ông chú đề nghị huy động kinh phí xây lại mồ mả ông bà hoành tráng hơn, xứng đáng với danh hiệu là tộc họ khai mở lập làng, hay ít ra cũng to hơn mộ tộc Trần, tộc Nguyễn... của làng bên. Đang mồ yên mả đẹp, lại xúi bậy, đúng là đầu óc có vấn đề hay vì danh hão, sự háo thắng... đã khiến các chú sinh nông nổi, Bách Đạt không những không làm theo mà còn to tiếng cãi vã.
Năm sau, nhân danh hội đồng gia tộc, mấy ông chú lại đề nghị xây lại nhà thờ tộc, cũng với lý do, hoành tráng hơn bề thế hơn nhà thờ các tộc họ làng bên. Lần này, nghe theo lời mẹ, Bách Đạt đã đi vay mượn để làm, các chú hứa sẽ huy động thêm kinh phí từ con cháu trong tộc đang làm ăn xa để góp phần công quả. Nợ chưa trả, các chú cũng quên luôn lời hứa, nhưng rồi mỗi ngày giỗ chạp lại gặp nhau, lại thêm những đề xuất, những sáng kiến khiến Bách Đạt đau cả đầu. Phải làm lại cái miếu Thành hoàng, ông chú Ba nói chắc nịch như vậy. Ông khéo miệng thuyết phục mọi người, không chỉ trong tộc họ mà cả bà con trong làng nữa. Nào là thần Thành hoàng là biểu tượng thiêng liêng của làng, là giá trị vĩnh hằng của đời sống tinh thần, nào là bám rễ sâu bền, là kết nối cộng đồng, là bản sắc văn hóa, vân vân và vân vân... Dù nói thế nào cũng không thuyết phục được ông trẻ. Bởi lẽ, miếu Thành hoàng vừa mới được trùng tu trước khi cha mất, hơn nữa, mẹ thì đang đau ốm triền miên, còn sức đâu mà lo chuyện đó nữa.
Đến một ngày, con ông chú Bốn về, khoe với cả làng đã góp mấy ngàn đô la xây mộ ông bà, con chú Út về khoe đã góp mấy trăm triệu xây lại nhà thờ tộc, con cô Năm về khoe đã huy động tiền từ con cháu sống ở thành phố gửi về xây miếu Thành hoàng... Nghe tin, Bách Đạt ức lắm nhưng cố nhịn để tìm hiểu thực hư. Rồi tin đồn cũng đến tai mẹ, bà biết tính chú Ba, chính chú đã ăn chặn tiền rồi đổ hết trách nhiệm lên đầu Bách Đạt. Thương con nhưng chẳng biết làm gì, bà đau buồn, bệnh tật ngày càng nặng, rồi qua đời trong một ngày mưa gió sụt sùi.
Chẳng còn gì để gắn bó với tộc họ làng xã, Bách Đạt bỏ quê ra đi năm 30 tuổi, mang theo bao nỗi ấm ức, buồn giận. Cuộc sống vốn công bằng, dân làng Đông đã tỏ, bà con tộc họ đã rõ, ông chú Ba phải trả các khoản đã “ăn”, ông chú Bốn được tộc họ phá lệ bầu giữ chức trưởng tộc, và Bách Đạt nơi đất khách quê người đã có cuộc sống mới ổn định.
* *
*
Chọn Đà Lạt làm nơi lập nghiệp, bởi đây là nơi yêu thích từ hồi còn nhỏ. Hơn nữa, Bách Đạt có người bạn cùng thời học đại học, là dân Đà Lạt, cứ mời dụ hoài. Nhờ bạn, từ tên bán sách báo dạo đến làm hướng dẫn viên du lịch cho một công ty lữ hành tư nhân, từ một nhân viên “chạy quanh” phố trở thành người của “văn phòng”, Bách Đạt đã dần tham gia quản lý điều hành công ty.
Có học hành bài bản, biết ăn nói, chịu thương chịu khó lại thừa quyết tâm, Bách Đạt dễ vượt qua những trở ngại ban đầu và ổn định nhanh cuộc sống nơi đất khách quê người. Sau thời gian ở nhờ nhà bạn, Bách Đạt đã tìm thuê được một nhà trọ ưng ý ở ngoại thành. Tuyệt vời làm sao, ở vùng đất này, hầu như nhà nào cũng có một vườn hoa nhỏ. Hoa nở quanh năm, nhiều loài lạ mắt mà Bách Đạt chưa từng thấy bao giờ. Đối diện nhà trọ là một ngôi nhà vườn hai tầng, khuôn viên rộng, trước cổng nhà có một giàn hoa, chẳng biết là hoa gì, trông như một cái kèn tí hon màu vàng đậm, hoa nhiều lắm, kiêu sa, lạ mắt. Hỏi quanh những cư dân ở đây, người ta trả lời khiến Bách Đạt càng rối thêm, là hoa Rạng Đông, là hoa Chùm Vàng, là Hoàng Hoa Mộng, là Chúc Nương...
Một sáng Chủ nhật cuối mùa thu, một ngày hiếm hoi nắng, Bách Đạt bất chợt thấy thảm hoa vàng nhà kia lay động, lấp lánh nắng, lấp lánh hoa. Hình như có người đang cắt tỉa, chăm sóc giàn hoa, phải rồi, xin một nhánh về giâm, biết đâu mình cũng sẽ có một giàn hoa đẹp như vậy.
Khoác chiếc áo len dài tay, xỏ đôi giày mới, Bách Đạt bước vội qua đường. Là một cô gái, đang dùng một cây khèo nhỏ kéo những lá khô và những hoa đã tàn. Hình như cô gái đã biết Bách Đạt mới đến khu này, nên chẳng chút ngạc nhiên khi nghe Bách Đạt giới thiệu.
- Chào em! Tôi ở nhà đối diện, hoa đẹp quá, là hoa gì vậy?
Cô gái có mái tóc ngắn, khuôn mặt sáng hồng, vẫn làm công việc của mình, chưa trả lời vội. Thấy mình hơi đường đột, một chút ái ngại, một chút hồi hộp, một cảm giác kỳ lạ. Cô gái liếc nhìn, cố giấu nụ cười nhưng nó vẫn hiện ra bởi gương mặt thoáng một nét vui.
- Là hoa vu vơ!
Nói xong cô gái lại nhìn Bách Đạt, như đang kiểm chứng điều gì đó.
- Hoa này nhân giống bằng cách chiết cành, nếu anh thích em sẽ tặng, từ khi bó chiết đến khi ra rễ phải hơn một tháng. Bây giờ em phải đi với ba mẹ, hẹn gặp lại anh!
Giọng cô gái vừa trìu mến, vừa dịu dàng, cứ muốn nghe hoài nhưng cô gái đã bước vào nhà, không quên để lại một ánh mắt cười đầy quyến dụ.
Rồi họ gặp nhau thường xuyên hơn, không chỉ dưới vòm hoa vu vơ, mà còn ở những nơi hò hẹn đầy lãng mạn của tình yêu. Cô gái là Chúc Nương, hèn gì có người đùa gọi cây hoa vàng kia là cây Chúc Nương, đã phả vào hồn Bách Đạt những rung động xuyến xao, đã nhuộm hồng trái tim Bách Đạt và từ đó niềm vui niềm hạnh phúc mỗi ngày một dâng đầy chất ngất, niềm hy vọng về một tương lai một cuộc sống mới đã hình thành.
Tình yêu đã cho Bách Đạt nghị lực, sức mạnh, niềm tin. Yêu đời yêu cuộc sống hơn, cho đến một ngày...
Sau chuyến đưa khách du lịch dài ngày tận biên giới phía Bắc, khi trở về dưới vòm hoa vu vơ kia không còn bóng hình của Chúc Nương, cổng đóng im lìm. Hỏi quanh xóm chỉ một thông tin duy nhất, họ dọn nhà đi từ đầu tuần, ngôi nhà đã đổi chủ. Người sống nhà kề bên nói rằng: “Biết chuyện cô ấy hẹn hò với cậu, một người không nhà, không cửa, nên gia đình họ đã dời đi nơi khác, chủ yếu là để... tránh cậu”. Câu nói người bạn láng giềng vô tình làm tổn thương lòng tự trọng của Bách Đạt, những mong ước hy vọng... vừa mới xây đã đổ sụp nhanh chóng.
Thời buổi công nghệ, việc tìm Chúc Nương chẳng khó gì nhưng Bách Đạt quyết không chịu đi tìm, bởi nếu còn yêu cô ấy sẽ tự biết phải làm gì. Chờ đợi và chờ đợi. Hơn một tháng rồi, chỗ cây bó chiết chắc đã ra rễ. Lại chờ đợi, vết sẹo của cây bắt đầu một cuộc sống mới, sao vết sẹo lòng mình cứ nhói đau.
Một đêm trăng buồn, dưới vòm hoa vu vơ kia, Bách Đạt nói lời từ biệt với chiếc bóng của mình, ngày mai sẽ tìm vùng đất mới, để quên giàn hoa vu vơ, quên tình yêu vu vơ, quên cô gái có tên Chúc Nương nhỏ xinh hiền thục.
Vùng đất mới trồng toàn là chè, đồi chè nương chè, bao la bát ngát. Nhưng nơi đây chỉ là chỗ để trọ để quên, công việc vẫn như ngày nào, làm quản lý của công ty du lịch, thi thoảng cũng đưa khách đi tour.
Hai mươi năm chờ đợi là quá đủ. Hai mươi năm cô độc nơi đất khách quê người cũng đã quá đủ. Trong một góc quán cà phê phố núi, một sáng mùa xuân, giữa làn sương mỏng tang, Bách Đạt thả tầm mắt nhìn ra xa. Bất chợt, một bầy cò trắng bay ngang, những nhịp vỗ cánh thân quen đến lạ khiến nỗi nhớ quê dâng trào. Và trong khoảnh khắc ấy, những giọt nước mắt thương quê, thương mình lặng lẽ rơi xuống, dẫu muộn màng, nhưng vẫn đầy ắp ý nghĩa.
* *
*
Nghe bạn về quê, tôi vội đến thăm, đồng môn đồng làng chẳng còn bao nhiêu đứa. Một Bách Đạt tóc dài chấm vai, râu cũng để dài sợi đen sợi bạc, nhưng không phải là một cụ già bởi thân hình to khỏe, dáng đi dáng đứng nhanh nhẹn, giọng nói âm vang đầy nội lực. Khu vườn và ngôi nhà ngày xưa đã không còn, các chú đã bán đi để có tiền lo chuyện tộc họ. Bách Đạt không buồn, bạn đã chuẩn bị cho ngày về.
Tôi nhượng lại cho bạn miếng đất nhỏ ngay cuối đường rẽ vào miếu Thành hoàng, quán cà phê Bách Đạt mọc lên trong sự háo hức của dân làng. Một lần tôi hỏi bạn.
- Sau hai mươi năm đi làm ăn xa, bạn mang về được những gì?
Vuốt chòm râu, như một thói quen, bạn buồn buồn trả lời, không phải cho tôi mà cho một người nào đó.
- Một loại hoa, cô ấy gọi là hoa vu vơ, chẳng biết là đùa hay thật, như tình yêu của mình vậy!
Tôi nhìn ra trước quán, giàn hoa phủ phê xanh mướt.
- Chỉ có vậy?
- Và cô ấy nữa!
Bách Đạt chỉ tấm ảnh chân dung đặt trên chiếc bàn nhỏ góc phòng sau quầy pha chế, rồi tiếp:
- Sáng nào mình và cô ấy cũng thưởng thức cà phê, chuyện trò vu vơ cho đến khi có khách vào.
Tôi thấy mắt Bách Đạt đỏ hoe. Một đứa cứng đầu bướng bỉnh như nó mà rơi lệ thì cái tình yêu đó chẳng vu vơ chút nào.
* *
*
Đã quá trưa, quán vắng tanh, cửa vẫn mở nhưng chủ quán không có nhà, tôi lấy điện thoại gọi cho bạn, rồi gọi ông Tú rủ chơi ván cờ tướng. Vừa kéo bàn ghế, sắp xếp bàn cờ thì có tiếng xe ô tô dừng trước quán. Tôi nhìn ra, bước xuống xe là cô gái cũng đã nhiều tuổi, trông quen lắm, nhưng không nhớ ra.
- Cho em hỏi, vào làng Đông đi đường nào ạ?
Tôi tập trung để nhớ khuôn mặt này, quen lắm! Đến khi cô gái nhắc lại lần nữa tôi mới giật mình.
- Đây là làng Đông rồi! Em tìm ai?
Những tia nhìn lấp lánh niềm vui, nụ cười thân thiện nhưng có chút ngượng ngùng.
- Dạ, anh biết làng mình có anh nào tên Nguyên không? Là Hoàng Nguyên, trạc tuổi anh!
- Làng này không có ai tên Hoàng Nguyên, hai làng bên cạnh cũng không có đâu, anh dân gốc ở đây nên biết rất rõ.
Niềm vui vụt tắt khiến đôi mắt sập buồn, tôi ái ngại quay vào, cô gái lên xe đi. Vào đến quầy pha chế, tôi giật thót người khi nhìn thấy tấm ảnh chân dung cô gái khi nãy, chẳng lẽ Hoàng Nguyên là Bách Đạt, lẽ nào...
Tôi quýnh quáng gọi cho bạn. Lại có tiếng xe ô tô, cô gái đã nhìn thấy giàn hoa vu vơ nên quay trở lại chăng?...
N.B.H