Bên dòng sông Trà Nô ngày ấy - Giang Nguyên Thái
Những năm đất nước có chiến tranh, hằng năm Bộ Văn hóa đều cử các họa sĩ của hai trường Mỹ thuật và Mỹ thuật công nghiệp đi thực tế ở các chiến trường B,C.
Đầu năm 1965, họa sĩ Ngô Văn Duyên đi Lào, lúc đó gọi là Chiến trường C. Họa sĩ Thế Vinh vào Khu V. Vào chiến trường Khu V còn có các anh Phạm Hồng, Đức Hạnh, sau này còn có các anh Triệu Khắc Lễ, Lê Khắc Cường, Đoàn Văn Nguyên, Lê Văn Thìn, Phạm Văn Vết, Trần Trung Chính, Tuấn, Chi... Vào Quảng Ngãi có Phạm Mùi, Phạm Dân, Hồ Thu. Bạn học phổ thông cùng tôi ở Trường Nguyễn Huệ, Hà Đông là họa sĩ Phúc Năng, sau khi học xong trung cấp Mỹ thuật 3 năm, đầu năm 1965 anh vào bộ đội rồi hy sinh ở chiến trường B. Nhà điêu khắc Thanh Tịnh và Vũ Hy Thiều vào Khu VI. Họa sĩ Huỳnh Công Nhãn cùng các họa sĩ Lê Lam, Chí Hiếu, Hoàng Bửu, Lâm, Hồng Xuân, Hoàng Anh, Thanh Châu... đi vào chiến trường Nam Bộ, Hoàng Đình Tài vào đường dây 559, Lê Trí Dũng vào chiến trường Quảng Trị và rất nhiều họa sĩ khác mà tôi không kịp nhớ tên.
Những năm đó, Trường Mỹ thuật sơ tán ở xã Quang Minh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Xuống tàu ở ga Trung Giã, chúng tôi phải đi bộ 5-6 cây số để đến Ngã tư Dật. Từ Ngã tư Dật rẽ trái, đi một thôi nữa là đến nơi sơ tán. Còn Trường Mỹ thuật Công nghiệp cũng đến đó thì rẽ phải. Lúc ấy Cầu Vát chưa có, chắc hẳn chúng ta đều còn nhớ tiếng gọi đò vang vọng giữa đêm khuya sau mỗi chuyến tàu vét cuối ngày từ Hà Nội lên Thái Nguyên.
Một buổi tối, Trường Mỹ Thuật tập trung ở sân kho làng Mản, gần bếp ăn tập thể ông Kìn để tiễn anh Trần Hữu Chất và Trần Thăng Giai vào chiến trường B. Trong không khí phấn khích và xúc động, họa sĩ Trần Hữu Chất đọc bài thơ “Những viên đạn tầm xa”, ý anh muốn nói chúng ta được nhà nước đào tạo để chi viện cho các chiến trường. Chúng ta như những viên đạn vượt Trường Sơn vào thực tế, ở nơi mưa bom bão đạn để tôi luyện ý chí và rèn giũa bản lĩnh vững vàng.
Tháng 9 năm 1969, tôi và họa sĩ Trần Thành Công được cử vào chiến trường Khu V. Chúng tôi phải lên Lương Sơn, Hòa Bình để luyện tập đeo gạch đá hành quân và bồi dưỡng cả thể chất lẫn tinh thần để sẵn sàng lên đường vượt Trường Sơn. Sau 3 tháng trời luyện tập, chúng tôi lên đường vào những ngày cuối năm. Đoàn xe bịt bùng do các chiến sĩ nữ làm tài xế đưa chúng tôi từ Lương Sơn tới ga Hàng Cỏ, rồi lên tàu hỏa đi thẳng vào Nghệ An. Tết Canh Tuất năm đó, chúng tôi ăn Tết ở bên bờ sông Sê-Ca-Máng, trên đất nước bạn Lào. Tôi mua sẵn mấy bánh pháo Bình Đà, để dưới đáy ba lô. Sáng mùng một Tết, cả góc rừng đì đùng tiếng pháo, khói thơm lan tỏa trên các lùm cây, cỏ, nhiều chị em nữ cùng đoàn nhớ nhà thút thít khóc.
Tết Tân Hợi năm 1971, cơ quan Hội Văn nghệ Giải phóng Khu V ăn Tết thật đơn sơ. Sang đến Tết Nhâm Tý năm 1972, tình hình có khá hơn. Đường dây 559 chi viện từ miền Bắc đã thông suốt nên Khu V đã có gạo ăn. Năm ấy tôi gói cho mỗi người một cái bánh chưng. Lá dong rừng bản to tới 40 phân, gạo nếp, đỗ xanh đổi của đồng bào dân tộc, heo thì cơ quan nuôi sẵn. Họa sĩ Hà Xuân Phong làm một cành bích đào song thọ bằng giấy màu mà giống y như thật. Sáng mùng một khách khứa đến chơi chúc Tết vui lắm. Còn nhớ bác sĩ Huỳnh Phương Liên và diễn viên múa Vũ Thị Phương Anh cùng nhau hát mãi bài ca “Tự nguyện” của nhạc sĩ Trương Quốc Khánh. Sau Tết, tôi và nhà văn Nay Nô đi công tác phía trước ở mặt trận Đắc Tô, Tân Cảnh. Mọi người ở nhà thì ra rừng phát rẫy, tỉa lúa.
Tết Quý Sửu năm 1973, tôi ăn Tết cùng anh chị em chiến sĩ Đại đội biệt động Lê Độ thành phố Đà Nẵng. Tôi và họa sĩ Đức Hạnh vào vẽ ở Đại đội này rồi ở lại ăn Tết luôn. Lúc đó Đại đội Lê Độ đang đóng quân ở Khe Rèng vùng B Đại Lộc. Nói là ăn Tết cho oai thôi, không có bánh chưng, bánh tét gì cả, anh chị em vẫn phải đi tác chiến trong thành phố, buổi sáng chỉ được chị nuôi chuẩn bị cho mỗi người một nắm cơm để giắt lưng ăn khi đói. Đây là một đại đội Biệt động toàn những chiến sĩ trẻ măng mà đánh giặc lại vô cùng gan dạ. Đó là các anh chị Trần Thái Hùng, Trần Thị Chiến, Đoàn Thị Tứ, là Học, là Phạm Kiều Đa, Phan Đức Long, Phan Văn Toán, Nguyễn Nho Minh, Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Thị Minh Thúy... Nhiều anh chị em đã hy sinh khi tuổi xuân còn dang dở.
Tết Giáp Dần năm 1974, Ban Tuyên huấn và Hội Văn nghệ Giải phóng Khu V về đóng địa bàn ở dọc sông Trà Nô thuộc huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam. Bếp ăn chung nên chúng tôi vẫn lội sông sang Ban họp hành, thăm hỏi nhau. Sông Trà Nô mùa cạn thì hiền hòa, nước chỉ đến đầu gối. Nhưng đến mùa lũ thì kinh khủng lắm, dòng sông bỗng trở nên hung dữ lạ thường. Cô Đệ, nhân viên báo vụ người Bắc Ninh và họa sĩ Hà Xuân Phong là những người đã mãi mãi gửi lại tuổi xuân trên dòng sông này vào một trong những mùa lũ ấy.
Đêm giao thừa, chúng tôi tập trung ở nhà ăn tập thể, vừa là hội trường. Anh Sâm, Trưởng Ban Tuyên huấn chúc Tết anh chị em. Anh Sâm người Khu IV giọng nằng nặng, đặc sệt chất Nghệ An. Anh kể chuyện tiếu lâm làm cả hội trường cười nghiêng ngả. Anh Thịnh, Trưởng Ban Huấn học cũng quê xứ Nghệ, anh này Hán học rất uyên thâm. Trước giao thừa anh ra vế đối “Tân niên, miêu bất tọa, bất ngọa!”. Tạm dịch là “Năm mới, mèo không ngồi, không nằm!”. Đây là vế đối khá hóc hiểm bằng tiếng Hán, lại được hiểu theo lối nói lái kiểu miền Trung. Thấy tôi cười cười, anh Thịnh hỏi: “Thái đối được không?”, “Dạ, em hiểu nhưng chịu vì anh ra vế đối hiểm hóc quá. Mèo không ngồi, không nằm thì là mèo đứng, nói ngược lại là mừng đ...”. Anh Đặng Minh Phương lúc đó là Tổng biên tập báo Cờ Giải phóng của Khu V, anh xin đối nôm là: “Cuối năm, đài hết pin, hết điện!”. Mới nghe anh Phương đọc đến đây, anh Thịnh từ sân khấu nhảy xuống ôm choàng lấy anh Đặng Minh Phương, miệng kêu liên tục: “Giỏi, giỏi lắm!”. Câu đối lại có nghĩa là: Cuối năm, đài hết pin, hết điện - có nghĩa là đài tịt! Nói lái theo kiểu miền Trung có nghĩa là... Chắc các bạn hiểu rồi.
Nhớ nhất là những ngày anh chị em Hội Văn nghệ Giải phóng Khu V chúng tôi đóng quân dọc sông Trà Nô, con sông chảy vào sông Trường rồi đổ vào sông Tranh để xuôi xuống hòa vào sông Thu Bồn rồi chảy ra bờ biển Cửa Đại. Tại đây, tôi đã vẽ được khá nhiều bức phong cảnh bằng chất liệu bột màu. Có lần vẽ dưới trời mưa xuân lấm tấm, anh Nguyễn Văn Tám ở Ban Giao Vận Khu còn căng ni-lon che cho tôi khỏi ướt. Anh Tám sau này là một vận động viên bóng đá, nhưng anh còn là thi sĩ, nhạc sĩ và anh Tám cũng là một tay vợt có hạng của thành phố Đà Nẵng.
Năm năm, năm cái Tết ở chiến trường Khu V đầy gian khổ và ác liệt. Đôi lúc, chúng tôi còn không nghĩ sẽ có được ngày về! Sau hơn 50 năm mừng vui gặp lại, chúng tôi không thể quên những năm tháng gian nan ngày ấy, càng không thể quên những đồng đội mình đã mãi mãi nằm lại chiến trường Khu V như các họa sĩ Hà Xuân Phong, Nguyễn Xuân An... Một cái Tết nữa lại đến, tôi muốn viết về những ngày ấy bên dòng sông Trà Nô như một nén tâm nhang gửi đến hương hồn các anh mỗi dịp xuân về.
G.N.T