Vài nét về phong trào văn nghệ trước khi thành lập Hội Văn học - Nghệ thuật Quảng Nam - Đà Nẵng

05.01.2025
Thanh Quế

Vài nét về phong trào văn nghệ trước khi thành lập Hội Văn học - Nghệ thuật Quảng Nam - Đà Nẵng

Một số nhà văn, nhà báo gặp nhau sau khi Hiệp định Paris được ký kết (tháng 2-1973)

Ngày 1/1/1997, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được chia tách thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Đó là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũng được chia tách thành Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Nam và Hội Văn học Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng. Nhân sự kiện này tôi muốn đi ngược lại quá trình thành lập Hội Văn học nghệ thuật Quảng Nam - Đà Nẵng.

Xin nói ngay rằng, Hội Văn học nghệ thuật Quảng Nam - Đà Nẵng có tiền thân là Phân hội Văn nghệ Quảng Nam trong kháng chiến chống Pháp và Phân hội Văn nghệ giải phóng Quảng Nam, Phân hội Văn nghệ giải phóng Quảng Đà trong kháng chiến chống Mỹ.(1)

Để tập hợp lực lượng văn nghệ sĩ tham gia vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc, năm 1948, Hội Văn nghệ Việt Nam ra đời ở chiến khu Việt Bắc. Tiếp đó Chi hội Văn nghệ Khu V được thành lập do nhà văn Phan Thao làm Chi hội trưởng, nhà văn Nguyễn Văn Bổng làm chi hội phó. Ở Quảng Nam, phân hội văn nghệ được tổ chức do nhà thơ Trinh Đường làm phân hội trưởng. Trong quá trình kháng chiến, nhất là sau khi phân hội văn nghệ ra đời, lực lượng văn nghệ sĩ ở Quảng Nam được phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhiều tác phẩm xuất sắc như: Trường ca Từ đêm 19 của nhà thơ Khương Hữu Dụng; tiểu thuyết Con trâu của nhà văn Nguyễn Văn Bổng lần lượt được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam. Tập thơ Người lính của nhà thơ Lưu Trùng Dương; tập truyện Bát cơm Cụ Hồ của nhà văn Nguyễn Thành Long (gốc Quảng Nam) đã được giải thưởng Phạm Văn Đồng ở Khu 5.

Nhiều văn nghệ sĩ đã có những tác phẩm có tiếng vang trong cả nước: Trinh Đường (thơ), Nguyễn Đình (thơ), Vũ Minh (thơ); Phan Xuân Hoàng (dịch thuật), Phan Thao, Lê Trí Viễn, Huỳnh Lý, Lê Đình Kỵ… (lý luận phê bình văn học); Dương Minh Ninh, Phan Huỳnh Điểu, Văn Cận (nhạc); Hoàng Châu Ký (Tuồng).

Sau năm 1954, hầu hết văn nghệ sĩ người Quảng Nam tập kết ra Bắc. Một số văn nghệ sĩ đã viết tiếp về cuộc kháng chiến chống Pháp như Đất nước đứng lên (tiểu thuyết của Nguyên Ngọc); Bên kia biên giới, Trước giờ nổ súng (tiểu thuyết của Lê Khâm - sau này là Phan Tứ). Nhà thơ Lưu Trùng Dương xuất bản tập thơ Những người đáng yêu nhất. Nhà thơ Nguyễn Đình xuất bản nhiều tập thơ đả kích Mỹ-Diệm. Nhà thơ Trinh Đường có tập thơ Hoa gạo. Nhà văn Nguyễn Thành Long có nhiều tập truyện ngắn, nổi bật là truyện Lặng lẽ Sa Pa. Một số cây bút mới xuất hiện: Võ Quảng (văn-thơ); Hà Đức Trọng (Thu Bồn) (thơ); Thân Như Thơ (thơ)… Các cây bút viết lý luận phê bình tiếp tục phát triển: Lê Trí Viễn, Huỳnh Lý, Lê Đình Kỵ và Nguyễn Văn Hạnh… Phan Huỳnh Điểu nổi tiếng ở nhiều bài hát (Nhớ Liên Khu V, Những ánh sao đêm), Văn Cận nổi tiếng với bài Giữ trọn tình quê… Hoàng Châu Ký có nhiều tác phẩm nghiên cứu về Tuồng. Hoàng Kiệt có những bức tranh được đánh giá cao…

Số văn nghệ sĩ còn ở lại quê nhà vẫn tiếp tục viết về lịch sử dân tộc và cuộc kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Văn Xuân, Vũ Hân… Có người phải đổi vùng để tránh sự đàn áp của địch và tiếp tục sáng tác như Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Tường Linh…

Từ năm 1961, sau khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, nhất là sau khi Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam được thành lập, nhiều văn nghệ sĩ người Quảng Nam - Đà Nẵng tập kết lần lượt trở về quê hương như Phan Tứ (1961), Nguyên Ngọc, Thu Bồn (1962), Phan Huỳnh Điểu (1964), Chu Cẩm Phong (1965), Văn Cận (1966), vào các cơ quan Khu ủy và Quân Khu V đóng ở miền Tây Quảng Nam.

Một số văn nghệ sĩ người Quảng Nam - Đà Nẵng (có cả người ở các tỉnh khác) đã về thẳng Quảng Nam và Quảng Đà(1), kết hợp với lực lượng học sinh, sinh viên từ phong trào đấu tranh ở thành thị lên căn cứ, thành lực lượng văn nghệ sĩ cho 2 tỉnh này như Vũ Minh, Huỳnh Phan Lê (Bắc về) cùng Hoàng Hương Việt, Chí Cao, Vũ Dương (Quảng Nam). Đoàn Xoa, Trần Văn Anh, Hồ Hải Học, Nguyễn Đình An, Hoài Hà (Bắc về) cùng Triều Phương, Hồ Duy Lệ (Quảng Đà).

Lực lượng văn nghệ đang hoạt động trong phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên và phong trào đấu tranh của phật giáo ở các thành thị miền Nam (gồm người Quảng Nam - Đà Nẵng và người các vùng quê khác đứng chân hoạt động tại Quảng Nam Đà Nẵng) có Nguyễn Nho Sa Mạc, Nguyễn Nho Nhượn, Đông Trình, Phan Duy Nhân, Tần Hoài Dạ Vũ, Trần Phá Nhạc, Hoàng Yên Dy (thơ); Vũ Đức Sao Biển (nhạc)…

Từ khi lực lượng văn nghệ được phát triển, nhiều tác phẩm có giá trị cũng được ra đời: Phan Tứ với tập truyện Về làng và tiểu thuyết Gia đình má bảy, chuẩn bị cho tập tiểu thuyết Mẫn và tôi nổi tiếng. Nguyên Ngọc với các bút ký, truyện ngắn Rừng xà nu, Đường chúng ta đi và chuẩn bị cho tiểu thuyết Đất Quảng. Thu Bồn với trường ca Bài ca Chim chờ rao và tập thơ Tre xanh. Phan Huỳnh Điểu (Huy Quang) với các bản nhạc Ra tiền tuyến, Anh hùng Nguyễn Bi…Văn Cận (Tân Nam) với ca khúc Giành lấy chính quyền về tay nhân dân Em bé Chơrun (Văn Cận mất vào tháng giêng 1968). Dương Hương Ly với nhiều bài thơ mới, chuẩn bị cho tập Mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ. Chu Cẩm Phong với tập truyện và ký Mặt biển Mặt trận …

Để tập hợp lực lượng văn nghệ sĩ ở vùng căn cứ và trong các thành thị tham gia các mặt trận chống Mỹ ngụy, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ ngày 1 đến ngày 10-10-1967, Khu ủy V tổ chức Đại hội Văn nghệ Khu V tại Nước Vin, Trà My, Quảng Nam. Cũng trong Đại hội này, ngày 9 và 10/10/1967, đã thành lập Chi hội Văn nghệ giải phóng Trung Trung bộ (sau này là Hội Văn nghệ giải phóng Trung Trung bộ) do nhà văn Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) làm Chủ tịch. Các Phó Chủ tịch: nhà thơ Vương Linh (Hải Lê), nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu (Huy Quang), đạo diễn Khánh Cao.

Sau Đại hội này, ở các tỉnh Khu V, các phân hội văn nghệ giải phóng cũng được thành lập. Phân hội Văn nghệ giải phóng Quảng Đà do nhà văn Đoàn Xoa làm phân hội trưởng, Phân hội Văn nghệ giải phóng Quảng Nam do nhà thơ Chí Cao làm phân hội trưởng.

Càng ngày, lực lượng văn nghệ sĩ trẻ người Quảng Nam - Đà Nẵng và khắp nơi trong cả nước lần lượt được bổ sung vào căn cứ Khu V, Quảng Nam và Quảng Đà: nhà thơ Ngân Vịnh (rút từ đơn vị chiến đấu về Quân khu 1967), nhà văn Dương Thị Xuân Quý (1968), Họa sĩ Hà Xuân Phong (1968), họa sĩ Phạm Hồng (1968)(1), nhà thơ Thanh Quế (1969), nhà văn Nguyễn Bá Thâm, nhà thơ Đỗ Văn Đông, nhà thơ Thế Oanh, nhà văn Ngô Quy Nhơn, Nhà văn Hoàng Minh Nhân (1971), nhà văn Thái Bá Lợi (rút từ Sư đoàn 2 lên Quân khu 1971)…

Từ sau khi thành lập Chi hội Văn nghệ giải phóng Trung Trung bộ, Phân hội Văn nghệ giải phóng Quảng Nam và Quảng Đà. Phong trào văn nghệ trên địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng càng sôi động.

Ở Chi hội Văn nghệ giải phóng Trung Trung bộ, ta thấy những cây bút nổi tiếng từ trước, nay có thêm những tác phẩm mới: Phan Tứ với tiểu thuyết Mẫn và tôi. Nguyên Ngọc với tiểu thuyết Đất Quảng. Thu Bồn với trường ca Vách đá Hồ Chí Minh và tập thơ Mặt đất không quên…

Những cây bút mới đã có những tác phẩm có tiếng vang: Dương Hương Ly với tập thơ Mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ. Cao Phương với tập thơ Xanh trong vườn Bác. Dương Thị Xuân Quý (Dương Minh Hương) với tập truyện, ký Hoa rừng. Chu Cẩm Phong với tập truyện Rét tháng giêng

Những cây bút trẻ có những truyện ngắn, ký, thơ được chú ý: Thái Bá Lợi với truyện Lòng cha, Đêm trong rừng quế. Ngô Thế Oanh có chùm thơ Ghi vội ở Bảo An Đông, Người du kích vùng Gò Nổi. Ngân Vịnh có chùm thơ: Tình yêu đưa em đi, Cái giếng bể thành, Những đám cỏ lông heo. Thanh Quế có chùm thơ Thăm chồng, Trước nhà em sông Vu Gia. Nguyễn Bá Thâm với truyện Gió chuyển mùa. Hoàng Minh Nhân với truyện Thành phố trước mặt. Đỗ Văn Đông với bài thơ Trước hàng rào cửa mở… Về âm nhạc, Thanh Anh có các ca khúc: Cô tự vệ Đà Nẵng, Tải đạn ra chiến trường… Về hội họa, Hà Xuân Phong có nhiều ký họa về trận Thượng Đức (Quảng Đà), về giải phóng Hoài Nhơn (Bình Định).

Ở Phân hội Văn nghệ giải phóng Quảng Đà có bước chuyển mới về số lượng tác giả và tác phẩm: Trần Văn (Trần Văn Anh - hy sinh trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy 1968) có bút ký xuất sắc Đêm Gò Nổi nói về quá trình chuẩn bị của Quân dân Quảng Đà cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy này. Hoài Hà với trường ca Bài ca Đà Nẵng nói về khí thế nổi dậy của nhân dân thành phố vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Hồ Hải Học với bút ký Đà Nẵng sôi động viết về những cuộc chiến đấu của Biệt động thành và nhân dân Đà Nẵng năm 1972. Hồ Duy Lệ với truyện ngắn Hai phía cửa sắt viết về phẩm chất cao đẹp của người dân Quảng Nam - Đà Nẵng trong lao tù. Đoàn Xoa, Nguyễn Đình An có nhiều truyện và bút ký ca ngợi cuộc chiến đấu của nhân dân. Họa sĩ Nguyễn Đức Hạnh xông xáo đi vùng sâu và vẽ nhiều tranh ký họa về quân dân Quảng Đà.

Ở Phân hội Văn nghệ giải phóng Quảng Nam ta thấy nhiều bài ca dao hay của Duy Nguyễn, Vũ Dương, thơ của Chí Cao (Sông Trường Giang ơi), thơ của Hoàng Hương Việt, Huỳnh Phan Lê; ký của Ngô Quy Nhơn. Về âm nhạc, đã có những sáng tác phục vụ cho Đoàn văn công tỉnh, huyện của Minh Đức, Đoàn Ngọc Bích… Về hội họa, độc giả chú ý nhiều ký họa, phác thảo của họa sĩ, nhà điêu khắc Phạm Hồng.

 Từ phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, phong trào đấu tranh của Phật giáo ở vùng đô thị, xuất hiện những cây bút có tên tuổi (người Quảng Nam - Đà Nẵng và các địa phương khác đứng chân tại Quảng Nam - Đà Nẵng) như Nguyễn Nho Sa Mạc, Nguyễn Nho Nhượn, Trần Phá Nhạc, Tần Hoài Dạ Vũ, Phan Duy Nhân, Đông Trình, Hoàng Yên Dy, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Đông Nhật … (thơ), Vũ Đức Sao Biển (nhạc)…

Những tác giả và những tác phẩm vừa nêu trên tôi chỉ dựa vào trí nhớ nên có thể còn thiếu, còn những sai sót, nhầm lẫn. Mong người đọc lượng thứ và bổ sung thêm. Cũng phải nói thêm rằng, trong kháng chiến chống Mỹ, nhiều tác giả ở Chi hội Văn nghệ giải phóng Khu V, những tác giả từ miền Bắc vào công tác một thời gian ngắn ở Quảng Nam, Quảng Đà đã để lại những tác phẩm xuất sắc, nhưng tôi không đưa vào bài này. Tôi chỉ kể đến sáng tác của những tác giả là người Quảng Nam - Đà Nẵng, những tác giả tuy sinh trưởng ở các vùng quê khác nhưng vào Quảng Nam, Quảng Đà chiến đấu, công tác, sau chiến tranh còn định cư lâu dài, lấy Quảng Nam - Đà Nẵng là quê hương thứ 2 của mình mà thôi.

Sau ngày giải phóng Đà Nẵng (29-3-1975), lực lượng văn nghệ sĩ từ căn cứ xuống, ở miền Bắc về và lực lượng văn nghệ sĩ trong thành thị (Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ) có nhiều cuộc giao lưu gặp gỡ nhau. Nhiều ý kiến muốn thành lập Hội Văn học nghệ thuột Quảng Nam - Đà Nẵng. Vì thế, Tỉnh ủy, Ủy ban đã có công văn thành lập Ban vận động thành lập Hội Văn học nghệ thuật Quảng Nam - Đà Nẵng vào năm 1977.

Từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 4 năm 1978, Đại hội Văn học Nghệ thuật Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ nhất được tổ chức. Đại hội quyết định thành lập Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Nam - Đà Nẵng do nhà văn Phan Tứ làm Chủ tịch; nhà thơ Lưu Trùng Dương và nhà nghiên cứu Tuồng Hoàng Châu Ký là Phó Chủ tịch Hội.

T.Q

 

(1) Trong chống Mỹ, tỉnh Quảng Nam được chia thành 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà.

(1) Trong chống Mỹ, để dễ chỉ đạo công tác và chiến đấu, Khu ủy V chia tỉnh Quảng Nam (tên gọi từ xưa đến kháng chiến chống Pháp) thành 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà. Vì thế để dễ nhận biết, tôi gọi lực lượng văn nghệ sĩ người Quảng Nam (xưa) tập kết về và lực lượng văn nghệ sĩ người Quảng Nam (xưa) hoạt động ở các đô thị miền Nam (kể cả Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ) là người Quảng Nam - Đà Nẵng. Còn số anh em văn nghệ người ở các tỉnh khác hoạt động tại Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ tôi gọi là đứng chân hoạt động tại Quảng Nam - Đà Nẵng.

(1) Các văn nghệ sĩ từ miền Bắc về, có người ở Khu một thời gian rồi chuyển về tỉnh như Phạm Hồng, Ngô Quy Nhơn về Quảng Nam.

Bài viết khác cùng số

Phấn đấu thực hiện đạt hiệu quả các hoạt động Văn học - Nghệ thuật giai đoạn 2024-2029Độc đáo hình tượng con Rắn trong nghệ thuật tạo hìnhHình tượng rắn trong văn hóa ViệtĐà Nẵng những năm Tỵ dưới thời Pháp thuộcVăn nghệ sĩ - Người sáng tạo tác phẩm và lan tỏa các giá trị nhân vănBác Hồ và những mùa xuân kháng chiếnChuyện về "Dung cá trích"Khát vọng mùa xuân - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộcNhịp cầu xanh Sơn TràNhớ một chuyến điĐà Nẵng xuânDấu xưa Cẩm HàVàng hoa một thuởSông Hàn - Một dòng nhịp sốngMưa xuânLời hẹn mùa xuânTết này con sẽ vềNhững mảnh trăng hao khuyếtMiền nắng ấmHồng hươngThanh xuân vời vợiTôi đi trên đường phố sáng nayCánh én mùa xuânNgồi chờ xuân tớiBí ẩnMùa xuân lên Tây BắcChấm phá TếtVũ điệu biểnSáng mùng Một lên chùa Linh ỨngBốn mùa cửa lớpPhố quậnMột ngàyNhững người phụ nữNgọn gió xuânNgẫu cảmTháng GiêngMùa xuân đang chờTằm còn nhả tơ...Mùa xuânNghệ sĩ nhiếp ảnh Huỳnh Văn Truyền: Không ngừng sáng tạo và dấn thânKhông gian mùa xuân trong thơ ĐườngNiềm vui Châu về Hợp PhốTống Thị trong tiểu thuyết Kỳ nữ họ Tống: người đẹp giữa đôi bờ thiện - ácDung dưỡng tâm hồn từ ký ức quê hươngLục bát Nguyễn Nho KhiêmMùa xuân, đọc thể hành và những bài hành hay trong văn học Việt NamĐi tìm chân dung sĩ phu xứ QuảngVài nét về phong trào văn nghệ trước khi thành lập Hội Văn học - Nghệ thuật Quảng Nam - Đà NẵngĐiệp khúcĐại hội Đại biểu Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng lần thứ X, nhiệm kỳ 2024-2029Hát khúc xuân caĐà Nẵng xuân yêu thương