Tống Thị trong tiểu thuyết Kỳ nữ họ Tống: người đẹp giữa đôi bờ thiện - ác

05.01.2025
Vũ Đình Anh

Tống Thị trong tiểu thuyết Kỳ nữ họ Tống: người đẹp giữa đôi bờ thiện - ác

Tiểu thuyết Kỳ nữ họ Tống của nhà văn Nguyễn Văn Xuân.

“Cái nết đánh chết cái đẹp” (Tục ngữ)

1. “Cái đẹp có thể an ủi hay náo loạn, có thể thiêng liêng hay trần tục. Nó có thể làm phấn chấn, lôi cuốn, tạo cảm hứng hoặc ớn lạnh. Nó có thể tác động đến chúng ta theo vô số cách khác nhau. Nhưng nó chưa bao giờ bị nhìn nhận với sự thờ ơ”[1]. Có lẽ đây là nhận định khá phù hợp dành cho nhân vật Tống Thị trong tiểu thuyết Kỳ nữ họ Tống của Nguyễn Văn Xuân. Tác phẩm khi ra đời được công chúng đón nhận rộng rãi, được Liên hiệp Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam trao giải A năm 2003. Nhân vật chính Tống Thị của tiểu thuyết có sự phức tạp trong đánh giá, theo chính sử triều Nguyễn thì bị coi là “nghịch thần”, song vẫn khen ngợi nhan sắc cùng tài ăn nói của bà. Trên cơ sở dữ liệu lịch sử đó, Nguyễn Văn Xuân đã dành khoảng gần mười năm để viết tác phẩm này, đây cũng là sáng tác mà ông tâm đắc nhất lúc sinh thời.

Tống Thị là người đàn bà có thật trong lịch sử giai đoạn nửa đầu thế kỷ XVII ở Đàng Trong. Tên, tuổi của người phụ nữ này không được sử sách ghi lại đầy đủ, chỉ gọi là Tống Thị. Theo nguồn tư liệu mới - sách Pháp ngữ ấn hành tại Sài Gòn vào năm 1961 nhân kỷ niệm 300 năm Alexandre de Rhodes, Tống Thị có họ tên đầy đủ là Tống Thị Toại[2]. Một số sách sử như Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn và các pho sử triều Nguyễn như Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên, Việt sử thông giám cương mục có ghi chép sơ lược về Tống Thị: là vợ trấn thủ Quảng Nam - Nguyễn Phước Kỳ, con dâu chúa Sãi (Nguyễn Phước Nguyên), chị dâu và tình nhân của chúa Thượng (Nguyễn Phước Lan), về sau tư thông với Chưởng dinh Nguyễn Phước Trung mưu làm phản, bị chúa Hiền (Nguyễn Phước Tần) xử tử...

2. Vẻ đẹp của người phụ nữ từ cổ chí kim luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho văn nghệ sĩ trong sáng tạo văn học nghệ thuật. Nguyễn Văn Xuân cũng viết nhiều về phụ nữ, luôn quan tâm đến vẻ đẹp của họ, song chỉ ở tác phẩm này, tác giả mới đặc biệt dụng tâm để miêu tả vẻ đẹp thân thể Tống Thị. Ngôn ngữ thân thể người phụ nữ được thể hiện trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật, điều này chúng ta cảm nhận rõ nhất ở thời Phục Hưng tại châu Âu. Tuy nhiên, đây vẫn là vấn đề phức tạp, luôn là thách thức đối với văn nghệ sĩ. Bởi nếu thành công thì sáng tạo sẽ được ngợi ca, còn nếu ngược lại sẽ bị xem là tầm thường, là dung tục. Trong tác phẩm của mình, có lẽ Nguyễn Văn Xuân đã “ý thức sâu sắc về những gì tiềm ẩn trong vẻ đẹp thân thể của con người tạo nên cảm xúc thẩm mĩ”[3]. Vì vậy, khi miêu tả về vẻ đẹp “sắc nước hương trời”, “khuynh đảo lịch sử”, ông luôn ngầm liên hệ giữa vẻ bề ngoài với bối cảnh, tâm trạng hoặc ý nghĩa, hậu quả mà nó đem lại.

Miêu tả vẻ đẹp thân thể của Tống Thị, nhất là khi đã trút bỏ xiêm y thì đó là vẻ đẹp ma mị, quyến rũ chết người. Những đấng nam nhi khi nhìn thấy vẻ đẹp thân xác của nàng thì đều như “con thú sa bẫy cố gắng vùng vẫy để tự kết liễu đời mình”[4]. Vẻ đẹp ấy được miêu tả đậm nét khi Hải Bằng lén lút nhìn trong đêm: “thân hình đàn bà lõa lồ, trong trắng như ánh trăng, uyển chuyển như cành mai (…) Tôi vẫn biết chị Tống rất đẹp, đẹp lạnh người nhưng không ngờ trong tư thế này, trong ánh sáng chập chờn và khung cảnh toàn nhung lụa lung linh, óng ánh này chị có thể đẹp não nùng đến thế! Đẹp làm rợn hết da thịt, lòng bàn chân và toàn bộ chân tóc tôi. Tôi có cảm giác cả người mất hết cảm giác”. Vẻ đẹp thân xác ấy như có bùa mê, thuốc lú, đã gây ra biết bao nhiêu “tấn thảm kịch” đáng thương tâm. “Chị Tống xinh đẹp hơn bao giờ vừa như nàng tiên giơ bàn tay độ thế vừa như một loài hồ ly ma quái đang dìm đầu người tình lún sâu thêm vào vực thẳm khoái lạc”.

Tấn thảm kịch đáng thương tâm đầu tiên do Tống Thị gây ra là Quan trấn thủ Quảng Nam - Nguyễn Phúc Kỳ. Nhà văn so sánh ông như “con thiêu thân trần trụi đã rơi hẳn vào dĩa dầu còn cố ngoi dậy tìm lạc thú một cách vô vọng”. Ông vì quá đam mê Tống Thị, quan hệ tình dục quá mức mà phát bệnh, mất khi độ tuổi ngoài ba mươi. Sau Nguyễn Phúc Kỳ, đến Nguyễn Phước Lan (là em kế của chồng), kế nghiệp cha làm chúa Thượng, gặp gỡ Tống Thị thì cũng say đắm sắc dục, bỏ bê triều chính, thay đổi tâm tính. Cuối cùng chúa Thượng cũng bị chết một cách bí ẩn, mà có tin đồn “chính chị đã đổ thuốc độc cho Chúa chết”. Sau chúa Thượng, đến Chưởng dinh Nguyễn Phước Trung (là em khác mẹ của chồng), ban đầu có ý định giết Tống Thị nhưng sau khi gặp nàng lại cũng thành đôi nhân tình quấn quýt không rời. Thậm chí, Tống Thị còn thuyết phục Chưởng dinh phối hợp tạo phản nhằm lật đổ chúa Hiền (là cháu ruột của ông). Hậu quả là Chưởng dinh phải tự tử chết trong ngục một cách nhục nhã.

Ngoài ra, ta còn kể đến chúa Trịnh Tráng, sau khi được nghe tả về vẻ đẹp Tống Thị và ngửi “chuỗi bách hoa xuyến”, thì hậu quả cực kỳ to lớn: “Tôi không ngờ một vị Chúa, quyền uy đầy mình, nắm vận mạng bao nhiêu vạn sinh linh trong tay lại có thể xử sự một cách liều lĩnh đến thế chỉ vì hình ảnh một người đàn bà. (…) Đã cử ngay đại đội hùng binh để Nam xâm, thực hiện đúng những yêu cầu của một mỹ nhân”. Hai nhân vật Thắng Bố và Hải Bằng suốt đời say mê vẻ đẹp của Tống Thị, đã tâm sự với nhau: “Tôi biết anh yêu bà ấy đến điên dại. Nhưng anh yêu trầm tĩnh quá đến nỗi như mất hết lý trí và đôi lúc hành động như bị ma ám. Còn tôi, tôi cũng yêu bà ấy, yêu khủng khiếp, yêu liều lĩnh, yêu không biết sợ cái gì trong đời này”... Vẻ đẹp của Tống Thị như có “bùa mê”, được thể hiện trong tiểu thuyết qua “chuỗi bách hoa xuyến”. Vì vậy, chúa Trịnh Tráng, chúa Nguyễn Phước Lan, Chưởng dinh Nguyễn Phước Trung yêu mê đắm. Nhưng nhiều nhân vật khác dù không được ngửi “chuỗi bách hoa xuyến” cũng yêu “điên dại”, “liều lĩnh” như Thắng Bố, Hải Bằng... Có lẽ bùa mê không chỉ ở “chuỗi bách hoa xuyến”, mà chính là vẻ quyến rũ, ma mị như “hồ ly” của nàng.

Vẻ đẹp ấy đã được nhà văn miêu tả tới hàng chục lần trong tiểu thuyết với những nét đẹp trong từng thời điểm, tùy tâm trạng khác nhau, rất đa diện. Ngay trong đám tang của chồng, “chị trong bộ đồ đại tang, vẻ xanh xao, mắt đẫm lệ, nhưng lại như càng đẹp hơn bao giờ. Một vẻ đẹp thiêng liêng của đau khổ tuyệt điểm tựa hồ một tiềm năng khác của nhan sắc đột nhiên gặp cơ hội biểu lộ ra ngoài”. Khi chứng kiến cảnh tượng Nguyễn Phúc Anh tạo phản, gây cảnh chiến tranh loạn lạc, chết chóc thì: “Mắt chị long lên. Trong một phút, tôi như phát hiện ở chị một loại nhan sắc tuyệt diễm của ác thần”. Thời điểm chúa Thượng chết, Nguyễn Phước Trung tìm cách hãm hại, nàng rất đau khổ, tuyệt vọng, nhưng nhan sắc thì kỳ lạ thay, “chị càng đau khổ chừng nào thì càng như tươi da, mát thịt hơn, khoé mắt, đầu mày càng nồng đắm hơn”...

Trong tiểu thuyết của mình, nhà văn xây dựng Hải Bằng như người vệ sĩ một lòng trung thành với Tống Thị, luôn xả thân bảo vệ không toan tính, suy nghĩ thiệt hơn, thậm chí “dẫu có chết vì chị thì đó là ân huệ mà chị thực sự ban cho tôi”. Thậm chí, sắc đẹp còn giúp nàng có cái chết nhẹ nhàng hơn. Khi âm mưu tạo phản bại lộ, Hải Bằng lo nàng bị xử lăng trì, nhưng đúng như Lê Sách nhận định: “Một ưu điểm lớn sẽ cứu bà thoát khỏi lăng trì. Anh biết không? Đó là sắc đẹp của bà. Không ai, dù có trái tim sắt mà nỡ giết một người đàn bà đẹp thế bằng cách thảm khốc đến thế. Người ta chống bà về tội ác nhưng không ai chống sắc đẹp của bà”. Như vậy, phải chăng nhà văn luôn đề cao, tôn thờ vẻ đẹp người phụ nữ? Dù rằng cái đẹp ở đây chưa gắn với cái thiện, cái chân, song nó vẫn là một giá trị được cuộc đời thừa nhận?

3. Bàn về đạo đức, Tống Thị bị chúa Hiền và nhân dân cả xứ Đàng Trong “căm hận bà ấy đến gan phổi. Vì chúa cho là do bà ấy mà tiên Chúa mất đạo đức, mất lòng dân. Xã hội hư đốn, đồi bại, quốc gia mất kỷ cương”. Bởi Tống Thị “thực sự chủ động, tích cực trong việc hại dân, tích luỹ thành phú gia địch quốc, thay ngôi chúa bằng những hành động táo bạo chưa dễ trong thế giới đã có mấy mặt phụ nữ từ cổ chí kim hành động liều lĩnh hơn bà”. Nói đến Tống Thị là nói đến tham vọng quyền lực mù quáng, cuối cùng khi âm mưu tạo phản bị bại lộ đã phải nhận lấy cái chết nhục nhã, bị người đời phỉ nhổ. Hình ảnh cuối cùng về Tống Thị đó là cái xác đang thối rữa được đào trộm trong đêm mưa gió để đem về chùa Thiền Lâm chôn, mà “nước mưa xối xả không rửa được mùi hôi thối khủng khiếp của thi hài”.

Hành động hại dân, hại nước của Tống Thị là không thể tha thứ, là đáng lên án. Song trong tiểu thuyết này, nhà văn muốn người đọc lưu tâm về quá trình chuyển biến tâm tư, tính cách của một tiên nữ sang ác quỷ, từ người xinh đẹp, hiền thục, từ tâm trở thành con người độc ác, xảo quyệt, đê tiện.

Khi quan Trấn thủ Nguyễn Phúc Kỳ còn sống, Tống Thị không chỉ là người xinh đẹp mà còn có lòng nhân từ. Vẻ đẹp của nàng lúc này chủ yếu được nhà văn khai thác ở yếu tố nội tâm, đạo đức. Đó là “cái vẻ chân thật đến ngây thơ, cái dịu dàng đến mềm yếu, cái bao dung độ lượng đến nhu nhược, lòng thương người đến khờ khạo mà đáng yêu”. Nàng thường xuyên làm công đức, “mang tiền, gạo, vải vóc ra cho những người ở các xóm nghèo quanh thành. Chị làm việc ấy từ nhiều năm”. Những người dân nghèo thấy nàng như “phật sống, bậc mỹ nhân cao quý nhất trần đời”.

Nhưng cái nốt ruồi “thượng phu trích lệ” của nàng như đã ngầm báo hiệu một cuộc đời đau khổ, bất an và đem đến chết chóc. Sau cái chết của chồng, thiên bạc mệnh của Tống Thị bắt đầu, biết bao sóng gió, tai họa liên tiếp đe dọa tấm thân mẹ góa, con côi. Trong một lần đi viếng mộ chồng, Tống Thị bị toán cướp bắt đưa lên núi (do Thắng Bố bí mật thực hiện vì quá yêu nàng). Phải khó khăn lắm, Hải Bằng và Lê Sách cùng quân sĩ mới cứu được nàng an toàn trở về. Sau đó không lâu, một tại họa khủng khiếp, “trọng đại”, “to lớn” hơn lại ập đến. Đó là “Quan cai cơ, thân phụ chị đã cùng cả gia quyến lên một chiếc thuyền lớn rồi vượt qua cửa Noãn (Thuận An) để về Thăng Long. Chúa rất phẫn nộ”. Nàng phải thân mẹ góa, con côi lặn lội dặm trường ra Phước Yên, phải lạy lục, nhờ vả hết các mối quan hệ để xin chúa tha cho.

Sự kiện chúa Sãi chết, con cả của nàng với tư cách con trưởng, cháu đích tôn không được đoái hoài tới, mà công tử thứ hai - Nguyễn Phước Lan lên ngôi năm Ất Hợi (1635). Bao nhiêu hy vọng mà nàng dành cho con trai một lần nữa tiêu tan. Sau đó, đến những ngày chiến tranh nội loạn tranh giành quyền lực của Nguyễn Phước Anh với anh trai là chúa Thượng diễn ra khốc liệt, tính mạng quân lính, nhân dân như cỏ rác trong loạn lạc. Tống Thị chua chát nhận ra: “vua chúa nào cũng độc ác như nhau khi động chạm quyền lợi của họ. Họ có thể chém anh, giết cha, bỏ thuốc độc mẹ, tru di tam tộc những đại thần...”.

Dường như đây là thời điểm Tống Thị hoàn toàn mất niềm tin vào cuộc đời. Những áp lực của đời sống suốt từ khi chồng chết, xô đẩy, dồn ép nàng với những mất mát, đau khổ, tuyệt vọng, khiến nàng hoàn toàn bế tắc. Nàng biết cuộc đời không để cho nàng yên ổn nên đã nảy sinh tư tưởng nổi loạn. Nàng nổi loan là chấp nhận thách thức của cuộc đời, chấp nhận một cuộc chơi vô nghĩa lý mà nàng tỉnh táo nhận ra: “Làm sao mồ cha cỏ chưa kịp mọc mà anh em đã vác gươm súng ra chiến trường rồi đâm nhau, bắn nhau như một lũ cướp, chẳng còn chút thể thống nào. Chỉ để cho thiên hạ nhìn vào chê cười, để cho máu sinh linh vô tội hết đổ ở Bắc lại đổ ở Nam? Khốn khổ! Tham lam! Một lũ điên! Chị rít lên”.

Nguyễn Văn Xuân đã phân tích kỹ lưỡng, sâu sắc những diễn biến xảy ra trong tâm hồn Tống Thị qua suy tư của Hải Bằng: “Tôi chỉ biết là chị đã cay chua, đau đớn, chán ngán nhiều, nhất là sau những ngày tiếp cận với những nhân vật cao cấp Nam Hà, trong phủ chúa. Những thăng trầm, hy vọng, tuyệt vọng nối tiếp nhau trong thời gian chưa tới năm năm đã đủ sức để chuyển biến tâm tư, tình cảm chị đến thế nào? Tôi chỉ biết một điều chắc chắn là sự thay đổi của chị có khi đến tận gốc rễ”.

Bắt đầu từ đây, tâm tính Tống Thị trở nên độc ác, tham lam, nham hiểm và đặc biệt, rất biết lợi dụng sắc đẹp để mưu lợi, cầu danh. Bằng sắc đẹp mê hồn người, giọng nói ngọt ngào, cử chỉ uyển chuyển, tài năng hơn người, Tống Thị làm lu mờ tất cả những người phụ nữ ở gần bà. Con người ấy đã làm mê muội biết bao đại trượng phu, vua chúa, quan lại. Tất cả đều trở thành những quân cờ để bà giật giây theo tham vọng của bản thân. Tống Thị biết việc mình làm là sai trái, sẽ gây đau khổ chết chóc cho nhiều người nhưng vẫn làm, bởi mọi niềm tin, giá trị, chuẩn mực của nàng đã đổ vỡ. Nàng thấy tất cả đều vô nghĩa lý.

Cuối cùng, nàng đã bị xử tội chết, tài sản bị phân phát cho nhân dân, gia đình tan nát. Khi suy ngẫm sự việc này, Hải Bằng liên hệ tới vở tuồng: “Với cái chết này, tôi biết... Người ta thở phào xem như thế là kết thúc một tuồng hát có đoạn gay cấn nhất rồi. Khán giả thỏa mãn ra về. Tất nhiên lời bàn tán xôn xao không phải chấm dứt. Nhưng nó rút vào các quán rượu, các gia đình”. Đây cũng chính là một cách thức diễn ngôn của văn chương hậu hiện đại khi xem cuộc đời như là trò chơi, là vở kịch, là hư vô. Mỗi nhân vật, mỗi cuộc đời, số phận như những “trò chơi”, “màn kịch”, “vở tuồng”… giữa cuộc đời. Các nhân vật hoặc chủ động tham gia cuộc chơi hoặc bị số phận, hoàn cảnh đẩy vào cuộc chơi đầy chết chóc. Mà trong cuộc chơi đó, “cái tai họa đau nhức, tủi nhục nhất của người này là trò chơi vô nghĩa của người kia”.

Như vậy, suy cho cùng, nhân vật nữ chính trong tiểu thuyết cũng là một con người đáng thương, “hồng nhan bạc mệnh”. Nàng bị khủng hoảng niềm tin, cuối cùng chính nàng cũng đánh mất bản ngã, lầm lạc phương hướng, lại góp phần gây thêm sự loạn lạc, đổ vỡ của cuộc đời. Vì vậy, nhân vật Hải Bằng đã tìm mọi cách để xóa bớt nỗi ô nhục mà nàng phải chịu đựng, lo toan chu đáo để đưa thi thể nàng vào chùa và gửi nhà chùa hương khói cho nàng, ghi lại nhật ký để tìm sự cảm thông cho nàng.

Như vậy, từ Tống Thị trong tư liệu lịch sử, Nguyễn Văn Xuân có rất nhiều sáng tạo độc đáo, thậm chí còn bày tỏ sự cảm thông, thấu hiểu, xót thương cho Tống Thị. Đây là một cách nhìn trái ngược với quan điểm được ghi trong sử sách. Vì vậy, để hợp thức hóa cho nhãn quan này, nhà văn đã sử dụng thủ pháp Mặt nạ tác giả[5]. Nguyễn Văn Xuân cố ý gán tác phẩm của mình cho người khác bằng việc tìm thấy tập sách cổ tên “Tống Kỳ Nữ” mà một “bậc tiền bối tích trữ, lưu lại nhiều đời” đem cho tác giả. Vai trò của nhà văn chỉ là “mạo muội biên tập lại cho dễ đọc” mà thôi. Tập truyện chỉ như một trò chơi chữ nghĩa, tin cũng được, không tin cũng chẳng sao, do thiếu sử liệu nên “quyết đoán chỉ có tính hàm hồ”. Nhờ thủ pháp Mặt nạ tác giả mà nhà văn thoải mái hơn trong các nhận định, phát ngôn.

4. Nói chung, qua tiểu thuyết Kỳ nữ họ Tống, Nguyễn Văn Xuân đã đặt ra rất nhiều vấn đề, chiều cạnh, suy tư trong sáng tác tâm huyết nhất của mình. Nếu như phần nổi của tác phẩm là cảm hứng phê phán, tố cáo những tham vọng quyền lực, tiền bạc, sắc dục… thì cũng có rất nhiều góc khuất cần tĩnh tâm nghiền ngẫm. Một vấn đề được nhà văn quan tâm sâu sắc là luôn đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ và thể hiện sự thương cảm đối với số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam thời loạn lạc. Nhân vật Tống Thị đã chịu nhiều khổ đau, mất mát, cuối cùng vì mất niềm tin, vì không chịu đầu hàng số phận, đã ra sức vùng vẫy để chống lại “mệnh bạc”. Sự lầm lạc phương hướng của nàng đã góp phần sâu sắc thêm sự loạn lạc của cuộc đời, số phận nàng càng ê chề, nhục nhã hơn. Vì vậy, như lời tâm sự của Hải Bằng với sư trụ trì chùa Thiên Lâm khi trao lại tập hồi ký, rằng nếu người đời có đọc thì xin hãy dành sự “xót thương cho thế thái nhân tình, cho số phận, kiếp người”.

V.Đ.A

 

[1] Roger Scruton (2016), Dẫn luận về cái đẹp, (Thái An dịch), Nxb Hồng Đức, tr.7.

[2] Lê Văn Hảo (2011), “Kỳ nữ họ Tống và xâu chuỗi trăm hoa”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, số 18/2011, tr.67.

[3] Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp của ham muốn, Nxb Tri thức, tr. 88.

[4] Các trích dẫn trong tiểu thuyết thuộc bài viết từ nguồn: Nguyễn Văn Xuân (2002), Kỳ nữ họ Tống, Nxb. Trẻ.

[5] Lại Nguyên Ân (2009), “Mê hoặc văn chương” với “Mặt nạ tác giả”, http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/me-hoac-van-chuong-voi-mat-na-tac-gia, ngày 11/12/2009.

Bài viết khác cùng số

Phấn đấu thực hiện đạt hiệu quả các hoạt động Văn học - Nghệ thuật giai đoạn 2024-2029Độc đáo hình tượng con Rắn trong nghệ thuật tạo hìnhHình tượng rắn trong văn hóa ViệtĐà Nẵng những năm Tỵ dưới thời Pháp thuộcVăn nghệ sĩ - Người sáng tạo tác phẩm và lan tỏa các giá trị nhân vănBác Hồ và những mùa xuân kháng chiếnChuyện về "Dung cá trích"Khát vọng mùa xuân - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộcNhịp cầu xanh Sơn TràNhớ một chuyến điĐà Nẵng xuânDấu xưa Cẩm HàVàng hoa một thuởSông Hàn - Một dòng nhịp sốngMưa xuânLời hẹn mùa xuânTết này con sẽ vềNhững mảnh trăng hao khuyếtMiền nắng ấmHồng hươngThanh xuân vời vợiTôi đi trên đường phố sáng nayCánh én mùa xuânNgồi chờ xuân tớiBí ẩnMùa xuân lên Tây BắcChấm phá TếtVũ điệu biểnSáng mùng Một lên chùa Linh ỨngBốn mùa cửa lớpPhố quậnMột ngàyNhững người phụ nữNgọn gió xuânNgẫu cảmTháng GiêngMùa xuân đang chờTằm còn nhả tơ...Mùa xuânNghệ sĩ nhiếp ảnh Huỳnh Văn Truyền: Không ngừng sáng tạo và dấn thânKhông gian mùa xuân trong thơ ĐườngNiềm vui Châu về Hợp PhốTống Thị trong tiểu thuyết Kỳ nữ họ Tống: người đẹp giữa đôi bờ thiện - ácDung dưỡng tâm hồn từ ký ức quê hươngLục bát Nguyễn Nho KhiêmMùa xuân, đọc thể hành và những bài hành hay trong văn học Việt NamĐi tìm chân dung sĩ phu xứ QuảngVài nét về phong trào văn nghệ trước khi thành lập Hội Văn học - Nghệ thuật Quảng Nam - Đà NẵngĐiệp khúcĐại hội Đại biểu Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng lần thứ X, nhiệm kỳ 2024-2029Hát khúc xuân caĐà Nẵng xuân yêu thương