Mùa xuân, đọc thể hành và những bài hành hay trong văn học Việt Nam

05.01.2025
Huỳnh Văn Hoa

Mùa xuân, đọc thể hành và những bài hành hay trong văn học Việt Nam

Hành, thể thơ thường đề cập đến những vấn đề chung, những sự kiện mới lạ, bất ngờ hay những đồng cảm tạo ấn tượng mạnh mẽ; chủ thể trữ tình thường kể lại sự việc với tâm trạng bức xúc, có thể bày tỏ thái độ, chính kiến; thể thơ cổ phong thường được sử dụng để sự biểu đạt không bị gò bó, ràng buộc.

Trước đến nay đã có nhiều định nghĩa về thể hành. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho biết: "Hành là thể thơ thịnh hành ở Trung Quốc vào thời Hán Ngụy, Lục Triều, có cội nguồn từ trong Nhạc phủ. Đặc điểm của nó là tự do, phóng túng, lớn, nhỏ, dài, ngắn đều không cố định. Lời thơ thường là lời nói làm cho cái chí trong bài hiện ra lồ lộ"[1]. Hồng Diệu trong Đường thi từ điển, ghi: Hành, "tên gọi một bài thơ thất ngôn dài quá tám câu và một bài thơ ngũ ngôn dài quá 16 câu, trong thơ Đường luật"[2].

Hành, thường được sử dụng để diễn tả một tâm trạng bi phẫn, bi hùng, xuất hiện vào những thời điểm lịch sử có những chuyển biến, tác động đến tâm tư, tình cảm, nhận thức của con người. Thể hành hay đề cập đến sự phân ly, chia cách, điều này thể hiện nơi đề tài, cấu trúc thẩm mỹ của hình tượng, nhân vật. Bài hành hay và ấn tượng bao giờ cũng là khối tâm sự ngổn ngang, bức xúc, giãi bày với nhân thế.

Văn chương Trung Quốc, ngoài những bài hành hay của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Thôi Hiệu, trong đó, phải kể đến Lý Hạ (790-816). Thơ và những bài hành của Lý Hạ đứng riêng một cõi.

Trong văn chương Việt Nam, thể hành xuất hiện muộn, có lẽ từ thế kỷ XVIII, XIX trở đi. Đọc thơ trung đại, chỉ thấy hành trong thơ Cao Bát Quát, Nguyễn Du, không thấy ở Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến. Thể hành vắng bóng trong thơ đầu thế XX. Mãi đến thơ ca giai đoạn 1932-1945, thể hành có mặt trong thơ Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân. Tại miền Nam, trước 1975, có những bài hành của Tô Thùy Yên, Thanh Nam, Phạm Ngọc Lư, Phạm Chu Sa, …

Văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ XVIII trở về trước, thể hành ít được vận dụng. Từ thế kỷ XIX đến nay, nhiều nhà thơ cổ điển, hiện đại có nhiều bài hành hay, nổi tiếng, xuất sắc, làm phong phú diện mạo một nền văn học. Viên Linh có ý kiến cho rằng, ngoài hành là thể loại, còn có nghĩa hành là đi. Bởi lẽ, nhiều bài hành đều đề cập đến các chuyến đi, việc ra đi của nhân vật trữ tình. Cũng là một ý kiến để tham khảo.

Bài hành được biết sớm, vào những năm đầu thời Gia Long (Giáp Tý, 1804), đó là bài Tiêu cung tuẫn tiết hành[3] của Đông bình chương sự Tô Phái hầu Nguyễn Huy Túc (chưa rõ năm sinh và năm mất), từng làm Đốc đồng Cao Bằng dưới thời Lê Chiêu Thống. Bài hành bày tỏ niềm thương tiếc đối với Hoàng phi Nguyễn Thị Kim, vợ vua Lê Chiêu Thống, vị vua cuối cùng của nhà hậu Lê, bà lánh nạn ở vùng quê Kinh Bắc, không theo chồng con sang Trung Quốc. Ngày 13/08/1804, vua Gia Long cho đưa di hài Lê Chiêu Thống về Việt Nam, bà lên cửa ải, đón di hài của chồng, khi di hài về đến Thăng Long, bà uống thuốc độc tự vẫn, giữ tiết nghĩa với chồng. Cái chết gây xúc động nhiều người. Những dòng thơ thật ai oán:

Tình khuê phụ thật là khó vẽ,
Rửa nước thơm làm lễ gọi là.
Mở quan, cúi mặt nhìn qua,
Chắp tay vái lạy lệ nhoà hai mi.

Cầm thuốc độc thầm thì từ tạ
Lui vào màn uống cả một hơi,
Trẻ già ai nấy rụng rời,
Triều đình nghe tiếng bồi hồi tiếc thương…

Có một điểm hết sức lạ trong văn học trung đại, đó là, Nguyễn Công Trứ (1778-1859), Nguyễn Khuyến (1835-1910), Trần Tế Xương (1870-1907) không sử dụng thể hành. Dẫu rằng, các nhà thơ này có lúc phẫn uất và bất bình với xã hội đương thời. Xem tuyển tập Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Thơ văn Nguyễn Khuyến, Thơ văn Trần Tế Xương của Nxb Giáo dục thì rõ.

Nguyễn Du (1765-1820) lại là một trường hợp đặc biệt, Bắc hành tạp lục, tập thơ thể hiện rõ nhất nỗi niềm ưu ái của nhà thơ trước số phận con người, trước bất bình xã hội, trong đó, có các bài hành xuất sắc: Trở binh hành (Bài hành về việc binh làm nghẽn đường) Bất tiến hành (Bài hành về việc thuyền không tiến lên được), Dự Nhượng kiều chủy thủ hành (Bài hành về chiếc gươm ngắn của Dự Nhượng), Sở kiến hành (Những điều trông thấy). Khi đi sứ, Nguyễn Du mượn đề tài, nhân vật lịch sử của Trung Quốc để nêu lên những điều nhà thơ muốn nói, muốn viết về đất nước mình, nhân dân mình, qua đó, tránh được sự nhòm ngó của triều đình nhà Nguyễn[4].

Thêm nữa, Cao Bá Quát (1808-1858), một nhà thơ lớn, một tên tuổi sáng chói, một nhân cách cứng cỏi, một văn tài độc đáo, một tiếng nói phê phán mạnh mẽ. Thơ Cao Bá Quát như ngọn triều, lúc nào cũng thao thức về một con đường đi lên của dân tộc, luôn khát khao tìm ra phương hướng, điều đó được thể hiện trong số bài hành hay, đặc sắc như Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Bài này từng được đưa vào Chương trình môn Ngữ văn lớp 11, giai đoạn 1990-2006)). Cao Bá Quát còn có Kim nhật hành (Bài hành hôm nay), Thượng Lưu Điền hành (Bài hành Thượng Lưu Điền), An Trường hành (Bài hành An Trường) (Xem Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, NXB Văn học, HN,1976).

Thơ văn đầu thế kỷ XX không có bài hành nào đáng nhớ. Đọc thơ Tản Đà (1888-1939), chỉ thấy những năm cuối đời, về lại quê nhà, ngắm nhìn mây trắng bay trên đỉnh non Tản, nhà thơ có nhiều cảm khái, song, lại không viết bài hành nào. Điều này, kể cũng lạ.

Trong phong trào Thơ mới (1932-1945), nhiều bài hành xuất hiện, trong đó, phải kể đến các bài hành hay của các nhà thơ như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân. Trước hết, phải nói đến Tống biệt hành của Thâm Tâm đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, năm 1940. Ở Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình Hoài Thanh có nhận xét: “Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài dưới đây (Tống biệt hành) lại thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi, gân guốc, không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”. Cái hay của bài thơ là ở giọng điệu: cứng cỏi, gấp gáp, không mềm mại, các thanh trắc phá cách, như những đợt sóng trào dâng mạnh mẽ, gợi nên không khí vừa hào hùng, bi tráng, vừa trữ tình, mãnh liệt. Vẻ thâm trầm, cổ kính của cảnh tiễn đưa, vẻ dửng dưng của ly khách, vẻ vời xa của đôi mắt. Hình ảnh hoàng hôn trong đôi mắt là cách diễn đạt tài tình, độc đáo. Tống biệt hành đánh dấu sự chuyển động của mỹ học Thơ mới, đưa lại một kiểu tư duy nghệ thuật khác với trước đó. Vì thế, có nhiều câu thơ tuyệt diệu, nhất là bốn câu mở đầu bài thơ:

Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Cả bài thơ phảng phất chút gì đó của hình ảnh Kinh Kha ngày trước, tuy có cường điệu nhưng vô cùng đẹp đẽ, tráng lệ.

Thâm Tâm (1917-1950) còn có Vọng nhân hành, đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, số 2, tháng 7-1944. Bài thơ có 26 câu, viết cho bạn bè. Một giọng thơ nghẹn uất, cay đắng thế sự. Lời thơ, hình ảnh, cách sử dụng từ ngữ mang âm hưởng trắc trở, lận đận, cánh chim hồng chim nhạn lỡ đường bay, gối hận trói buộc: Thơ ngâm giở giọng, thời chưa thuận/ Tan tiệc quần anh, người nuốt giận/ Chim nhạn, chim hồng rét mướt bay/ Vuốt cọp, chân voi còn lận đận/ Thằng thí cho nhàm sức võ sinh/ Thằng bó văn chương đôi gối hận/ Thằng thư trói buộc, thằng giã quê/ Thằng phấn son nhơ... chửa một về!

Những câu thơ hay nhất trong Vọng nhân hành, đó là:

Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch.
Ta ghét hoài câu “nhất khứ hề”

 

Ngoài phố mưa bay: xuân bốc rượu,
Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê.
- Ới ơi bạn tác ngoài trôi giạt,
Chẳng đọc thơ ta tất cũng về.

Trong Thơ Thâm Tâm, NXB Văn học, 1988, ghi Can trường hành viết vào năm 1944, cùng thời điểm của Vọng nhân hành, dài đến 48 câu, cũng là lời lẽ cho bạn, song, khác về cả từ ngữ và giọng điệu. Ta gặp ở đây một tâm sự, tâm sự của chim bằng ốm, của gái điếm già, của lười viễn mộng. Tâm sự gửi vào chén rượu: Mềm môi nốc cạn một vò men/ Ném chén cười cho đã mắt ta/ Thà với mãng phu ngoài bến nước/ Uống dăm chén rượu quen tay thước/Cái sống ngang tàng quen bốc men...

Bốn lần "Ngươi chẳng thấy", mỗi lần mỗi khác, lần với sông Hồng "Thao thao Hồng Hà vạn thuở chảy/ Nước mạnh như thác, một con thuyền/ Ta lênh đênh hoài sầu biết mấy!, lần với Tây Hồ xanh như thu, lần thứ ba đời buồn, tri kỷ tếch phương trời, còn lại: Chén rượu ngồi suông vắng cả người!

Mấy dòng kết thật buồn: Người chẳng thấy rằng hoa như tím/ Hoa nát lòng ta đau vạn thuở.

Ngoài các bài hành của Thâm Tâm, còn có các bài hành khác, nổi tiếng, để lại ấn tượng cho nhiều thế hệ bạn đọc. Đó là Hành phương nam của Nguyễn Bính (1918-1966), viết tại Đakao, 1943, có 11 khổ, 44 câu. Hành phương nam là một trong những bài thơ hay của Nguyễn Bính, có thể viết khi đang trong cơn say. Nói đến Nguyễn Bính không thể không nói đến Hành phương nam:

Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say
Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may

Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Người ơi buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy

Nguyễn Bính có những vần thơ bi tráng, tuyệt hay, không thiếu chất hào sảng, lột tả tâm trạng, nỗi lòng não nùng của một kẻ đất khách tha hương: Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?/Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự /Giầy cỏ gươm cùn ta đi đây...

Trần Huyền Trân (1913-1989) với Độc hành ca, 92 câu, có thể xem đây là bài hành hay của một trong tam nhân “cùng một lứa bên trời lận đận”, gồm Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân. Độc hành ca viết theo thể lục bát, khác với Hành phương namTống biệt hành. Độc hành ca có giọng riêng, đầy bi phẫn. Bài thơ in trong Trần Huyền Trân - Rau tần, NXB Hội Nhà văn, HN, 1995, ghi viết tại Khâm Thiên, năm 1940. Giọng thơ mang đậm chất bi. Có rượu, thiếu bạn. Thơ làm chẳng để tiễn ai, cũng không khảng khái từ bỏ, vọng một chút cổ điển. Có chỗ vừa tự sự vừa trữ tình, vừa đối đáp vừa tự trào: Đã toan ném bút, vùi thơ/ Thõng không tay áo sợ dơ dáng đời. Những câu thơ hay của Độc hành ca:

Chiều nay nhắc chén lên môi
Không dưng tưởng nhấp máu người tanh tanh
Khóc nhau, ném chén tan tành
Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ...

Cố nhân! ới hỡi, người xưa
Dọn đi tâm sự
Ðẩy mưa về rừng!

Như một câu thơ của Trần Huyền Trân "Đã toan ném bút, vùi thơ", bẳng đi mấy mươi năm, có thể kể từ sau 1945, thơ Việt không xuất hiện bài hành nào. Điều này có lý do về lịch sử.

Tại miền Nam, trước 1975, bài hành viết sớm nhất, Bài hành đón tuổi bốn mươi của Thanh Nam, viết năm 1970 tại Sài Gòn. Thanh Nam (1931-1985) là cây bút viết tiểu thuyết, làm thơ, viết báo. Bài thơ có 82 câu, phản ánh tâm sự, tâm trạng của tác giả. Xuyên suốt bài hành là hình ảnh chén rượu. Mở đầu: Én nhạn về nam xuân rồi đây/ Chợt thèm ly rượu, chút mưa bay. Kết thúc bài thơ, vẫn là chén rượu: Bắt chước cổ nhân nâng chén rượu/ Mừng xuân thay áo mới cho đời.

Bốn mươi tuổi, như người xưa quan niệm, “tứ thập nhi bất hoặc” là khi người ta đến 40, ngưỡng tuổi có thể thấu hiểu mọi lẽ ở đời trong thiên hạ, phân biệt được phải hay trái, đúng hay sai, tốt hay xấu, nên và không nên. Trong “đáy hồn lưu lạc” với dấu chân “xưa nhạt dấu giày”, nhà thơ ngẫm nghĩ thân thế:

Lận đận lý nào theo trọn kiếp
Tối tăm không lẽ mãi đêm dài?
Niềm thê nhi đó giờ yên phận
Nợ áo cơm này nặng trĩu vai

Năm tháng sức trai mòn mỏi mãi
Nụ xuân đời đã lánh tầm tay
Vở tuồng nhạt nhẽo màn chưa hạ
Vai kép buồn kia vẫn giễu hoài …

Bài hành phản ánh nỗi niềm của những người có chút ít chữ nghĩa, sống lương thiện, mỏi mòn chờ một đổi thay của cuộc sống. Mong manh quá! Hy vọng gửi cho con: Lại đây con nhỏ, con yêu dấu/ Bố uống cho con ly rượu này/ Ly rượu mừng con tròn mộng đẹp/ Niềm vui hoa nở tháng năm dài/ Ngủ đi, con hỡi mai khôn lớn/ Ðời sẽ bình yên không lửa gai/ Trong vắt hồn con nguyên khối ngọc/ Lượng xuân đời chẳng khép vòng tay/ Nhìn con giây phút lòng tan biến/ Những chuyện ân thù, những đắng cay/ Tiếng bạc đời cha gieo đã lỡ/ Chiều tà khôn gỡ nước cờ sai/ Trắng tay nhìn lại còn con đó/ Hy vọng đời cha mẹ kiếp này…
Vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX, khi cuộc chiến đi vào giai đoạn khốc liệt, Phạm Ngọc Lư có hai bài hành hay. Đó là Biên cương hành và Cố lý hành. Cả hai bài đều viết vào năm 1972, năm dữ dội của cuộc chiến tranh. Lời thơ gân guốc, gập ghềnh như đá núi Trường Sơn. Phạm Ngọc Lư sinh năm 1946 tại Thừa Thiên, là cựu sinh viên Việt - Hán Đại học Văn Khoa Huế. Tốt nghiệp trường Quốc gia Sư phạm Qui Nhơn. Dạy học tại miền núi Tuy Hòa. Trước năm 1975, ông viết trên các báo, tạp chí Nghệ Thuật, Văn, Khởi Hành, Ý Thức, Bách Khoa, Tuổi Ngọc… Phạm Ngọc Lư chủ yếu viết truyện ngắn, có làm thơ nhưng ít.

 

Biên cương hành mở đầu là những câu thơ giới thiệu về hiện thực đầy ghê rợn của biên cương. Ở đó, núi cao rừng thẳm, máu nuôi rừng xanh ngắt, những dãy núi chập chùng như dãy mồ chôn, thanh xuân đã cùng đường, thôi em, đừng chờ đợi:

- Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ chôn

 

- Biên cương biên cương đi biền biệt
Chưa hết thanh xuân đã cùng đường

Trông núi có khi lầm bóng vợ
Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
Thôi em, sá chi ta mà đợi
Sá chi hạt cát giữa sa trường …

 

- Đây biên cương, ghê thay biên cương!
Tử khí bốc lên dày như sương
Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu
Rừng núi ơi ta đến chia buồn…

  Đây là một bài hành hay, giọng bi phẫn, u uất, buồn thế sự. Những hình ảnh đầy nghẹn ngào, thương cảm, đọc lên, bao xúc cảm ngập tràn. Cả một dãy biên cương lửa dậy: Núi tiếp rừng, rừng tiếp khe truông/ Chém cây cho đỡ thèm giết chóc... Tâm trạng thê lương: Buồn quá giả làm con vượn hú/ Nào ngờ ta con thú bị thương/ Chiều hôm bắc tay làm loa gọi/ Gọi ai nơi viễn xứ tha phương?/ Gọi ai giữa sơn cùng thuỷ tận?/ Ai người thiên cổ tiếc máu xương?/ Trông núi có khi lầm bóng vợ/ Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương...

Cuộc sống dữ dội, đa chiều, đa diện làm cho bài hành vừa sống thực, lay động trái tim người đọc vừa cống hiến một viên ngọc cho thơ ca. Những dòng thơ cuối bài mới ai oán làm sao: Thôi em, còn chi ta mà đợi/ Ngày về: thân cạn máu khô xương/ Ngày về: hôn lễ hay tang lễ/ Hề chi! buổi chinh chiến tang thương/ Hề chi! kiếp cây rừng đá núi/ Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.

Ngoài Biên cương hành, Phạm Ngọc Lư còn có Cố lý hành. Cố lý hành, bài thơ không dài, chỉ 32 câu, bày tỏ nỗi niềm về cố lý. Như tên gọi của bài thơ, Cố lý hành phản ánh tâm trạng của kẻ xa quê, mười năm chưa lạ mặt xóm làng, trở về ngổn ngang cảm xúc, vẫn đò cũ qua sông nhưng sao hắt hiu bến đợi, Thôn ổ tiêu sơ gầy khói bếp/ Đồng không mốc thếch lạnh tro tàn/ Rơm rạ làm thinh chẳng hỏi han/ Cổng khép rào vây vườn cỏ dại Tre già đang kể chuyện chôn măng/ Nương rẫy đang phơi lòng dâu bể/ Nói làm sao hết nỗi bàng hoàng?

Một bài hành về cố lý mang tâm trạng như Thâm Tâm trong Hành phương nam, đâu mẹ, đâu em, đâu chị: Đâu bóng mẹ già sau khung cửa/ Và những người em mặt trái soan / Đâu bóng chị hiền như hoa cỏ/ Bên luống cà xanh liếp cải vàng!

Cố lý hành dằng dặc những câu hỏi: Có biết ta về không cố lý? Khóc làm sao vừa lòng cố lý ? Phải đây là cố lý ta chăng? Nhớ Phạm Ngọc Lư là nhớ các bài hành.

Vào những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến, Phạm Chu Sa (tên thật Phạm Đình Thống, sinh 1949, tại Bình Định) viết Bắc Phương Hành vào tháng 2-1973, sau ngày ký kết Hiệp định Paris, vừa vui mừng vì hòa bình sắp trở lại trên quê hương vừa ngậm ngùi thương tiếc những người đã nằm xuống: Hai mươi năm nối thành bi khúc/ Bài ca buồn bã nối điêu tàn/ Những ngựa ngủ vùi lòng đất chết/ Những đời nằm xuống vẫn hoang mang/ Màu quê cũ rưng hồn lữ khách/ Chút lòng lận đận với quê hương…

Phạm Chu Sa còn viết Trường Sơn hành, ghi sáng tác tại Ban Mê Thuột, tháng 6 năm 1974. Bài hành có 64 câu, phản ánh tâm trạng buồn nản về thời cuộc. Là chuyện của một thời ly loạn, về cái dữ dội, đau thương của Trường Sơn: Núi chẻ đèo cao rừng thăm thẳm/ Núi tiếp rừng xanh nắng trải thảm/ Sá gì rừng thẳm đèo quanh co/ Ngại gì một bóng đời chơ vơ/ Trường Sơn núi dài hằn vết chém/ Nát bấy hồn ta làm muôn mảnh/ Máu đỏ ngầu sông núi thân yêu/ Ta nhìn ta bóng đổ tàn xiêu...

Trong những bài hành hay, phải kể đến Trường Sa hành của Tô Thùy Yên (1938 - 2019). Trường Sa hành của Tô Thùy Yên là bài thơ đầu tiên viết về Trường Sa, vào tháng 3/1974, dài 66 câu. Những hình ảnh dữ dội và khắc nghiệt, cả cái hùng vĩ, lớn lao và cao cả của một Trường Sa cũng lần đầu xuất hiện trong thơ ca Việt. Bài hành viết theo thể Thất ngôn cổ phong, hơi hướm vừa cổ điển, vừa hiện đại và xen lẫn Đường thi, tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ. Cho đến nay, vẫn chưa có bài thơ nào viết hay hơn, dữ dội hơn, hùng tráng hơn về Trường Sa như Trường Sa hành của Tô Thùy Yên.

Vào bài thơ, thi sĩ trích hai câu thơ của Saint John Perse (31 tháng 5 năm 1887 - 20 tháng 9 năm 1975), thi sĩ nổi tiếng của Pháp thế kỷ XX, đoạt giải Nobel Văn học năm 1960: Toujours il y eut cette clameur, Toujours il y eut cette fureur... (Lúc nào cũng tiếng ồn ã ấy/ Lúc nào cũng nỗi hãi hùng ấy) như một đề từ cho chủ đề của bài hành. Bài hành có 64 câu, viết vào tháng 3/1974, tức hai tháng sau khi Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa (19.01.1974) và một phần Trường Sa của nước Việt Nam và bảy mươi tư anh hùng đã ngã xuống, hy sinh tính mạng để bảo vệ biển đảo Tổ Quốc yêu dấu.

Trường Sa hành là khúc tráng ca về tình yêu Tổ quốc, là bản hùng ca về sự dũng cảm, gan lỳ, chống lại cái dữ dội của thiên nhiên và cái Hiu Quạnh Lớn của con người. Cảnh sắc Trường Sa như nỗi hoang vu lớn lấn chiếm suy nghĩ con người: Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế/ Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?/ Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ/ Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.

Nếu nhìn vào ba bài hành, thì Tống biệt hành của Thâm Tâm vương vấn những nỗi niềm của sự chia biệt, Biên cương hành của Phạm Ngọc Lư nhuốm những khổ đau, khốn khó, dày vò của cuộc chiến diễn ra trên quê hươngViệt và Trường Sa hành của Tô Thùy Yên mang âm hưởng triết luận, cho thấy sự hữu hạn, nhỏ bé của con người trước Hiu Quạnh Lớn của thiên nhiên và cái dữ dội của đất trời, biển cả: Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn/ Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ/ Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!/ Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề/ San hô mọc tủa thêm cành nhánh/ Những nỗi niềm kia cũng mãn khai/ Thời gian kết đá mốc u tịch/ Ta lấy làm bia tưởng niệm Người/ Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế/ Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?/ Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ/ Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời...

Gần đây, vào năm 2001, có 3 bài hành độc vận của ba nhà thơ xứ Quảng: Tường Linh, Tần Hoài Dạ Vũ và Nguyễn Đông Nhật. Tạp chí Sông Hương, số ra tháng 4/2011, đã đăng ba bài thơ trên.

Ba bài hành là ba tâm trạng, ba nỗi niềm nhân thế. Tường Linh với Khúc ca quy ẩn, 64 câu, tổng kết một đời làm thơ, trên 50 năm, nay, nhìn lại, cô đơn và ngậm ngùi: Cuối cuộc viễn trình đơn độc quá!/ Bơ phờ cánh hạc khép đường bay/ Gẫm bao chí lớn trong thiên hạ/ Chẳng được còn xanh với cỏ cây/ Thì ta một chấm nhân sinh nhỏ/ Mong mỏi gì hơn ở kiếp này?/ Khúc ca quy ẩn đưa xa nhịp/ Khắc nét đời thơ chiếc bóng gầy/ Vang mãi dư âm triều hệ lụy/ Thơ chào tuyệt tích gửi ai đây?

Qui ẩn, về đâu?, thơ Tần Hoài Dạ Vũ, 62 câu. Buổi chiều của đất trời cũng là buổi chiều của đời người. Bài thơ đầy tâm trạng, thấm mùi lưu lạc, ngồi nhẫm đắng cay, giấc mộng sông hồ tan bọt nước. Bốn câu thơ cuối vừa vừa nghẹn ngào, vừa u uẩn: Đời thôi xin cứ bay như khói/ Chẳng có ai về lau mắt cay/ Dẫu trốn được ra ngoài hữu hạn/ Hư vô cũng lạnh cuối chân mày!

Nguyễn Đông Nhật với Quy khứ - về đây, 58 câu, vẫn là những trận cờ ma loạn của nhân thế, Chữ nghĩa tan theo nắng cuối ngày/ Được mất còn chi ngoài rách nát... Thôi thì: Thời gian. Xin giữ đền tơ tóc/ Vinh - dự - tang - thương một cõi này/ Thôi đành che mắt ướt trong tay...

Thể hành là thể thơ cho thấy người làm thơ cảm xúc về thời thế mình đang sống, day dứt thế sự, vì thế, các bài hành không chỉ phong phú về âm điệu, mà còn là khúc ca cảm khái và giãi bày tâm trạng. Một bài hành hay là một thế giới tâm hồn đầy đa mang, dằn vặt, thao thức của nhà thơ.

H.V.H

 

[1] Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, HN, 1997, trang 236.

[2] Hồng Diệu, Đường thi từ điển, NXB Văn học, HN, 2015, trang 336.

[3] Xem Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Văn học, HN, 2008, trang Hồi 17, tr 382.

[4] Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, HN, 1978.

Bài viết khác cùng số

Phấn đấu thực hiện đạt hiệu quả các hoạt động Văn học - Nghệ thuật giai đoạn 2024-2029Độc đáo hình tượng con Rắn trong nghệ thuật tạo hìnhHình tượng rắn trong văn hóa ViệtĐà Nẵng những năm Tỵ dưới thời Pháp thuộcVăn nghệ sĩ - Người sáng tạo tác phẩm và lan tỏa các giá trị nhân vănBác Hồ và những mùa xuân kháng chiếnChuyện về "Dung cá trích"Khát vọng mùa xuân - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộcNhịp cầu xanh Sơn TràNhớ một chuyến điĐà Nẵng xuânDấu xưa Cẩm HàVàng hoa một thuởSông Hàn - Một dòng nhịp sốngMưa xuânLời hẹn mùa xuânTết này con sẽ vềNhững mảnh trăng hao khuyếtMiền nắng ấmHồng hươngThanh xuân vời vợiTôi đi trên đường phố sáng nayCánh én mùa xuânNgồi chờ xuân tớiBí ẩnMùa xuân lên Tây BắcChấm phá TếtVũ điệu biểnSáng mùng Một lên chùa Linh ỨngBốn mùa cửa lớpPhố quậnMột ngàyNhững người phụ nữNgọn gió xuânNgẫu cảmTháng GiêngMùa xuân đang chờTằm còn nhả tơ...Mùa xuânNghệ sĩ nhiếp ảnh Huỳnh Văn Truyền: Không ngừng sáng tạo và dấn thânKhông gian mùa xuân trong thơ ĐườngNiềm vui Châu về Hợp PhốTống Thị trong tiểu thuyết Kỳ nữ họ Tống: người đẹp giữa đôi bờ thiện - ácDung dưỡng tâm hồn từ ký ức quê hươngLục bát Nguyễn Nho KhiêmMùa xuân, đọc thể hành và những bài hành hay trong văn học Việt NamĐi tìm chân dung sĩ phu xứ QuảngVài nét về phong trào văn nghệ trước khi thành lập Hội Văn học - Nghệ thuật Quảng Nam - Đà NẵngĐiệp khúcĐại hội Đại biểu Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng lần thứ X, nhiệm kỳ 2024-2029Hát khúc xuân caĐà Nẵng xuân yêu thương