Lời hẹn mùa xuân

01.01.2025
Trần Thiên Hương

Lời hẹn mùa xuân

- Anh Hai! Anh mới về quê à? Về chơi hay có việc chi không anh?

  • Ừ, anh mới về, lần này anh về kêu người sửa sang lại phần mộ ông bà Nội. Sắp đến Tết rồi, cũng muốn ông bà có một nơi khang trang mới mẻ. Mấy năm trước anh bận quá chưa lo được, cảm thấy áy náy em ạ.
  • Dạ. Tốt quá. Đã kêu được người làm chưa anh?
  • Có rồi Anh kêu dịch vụ, chỉ cho họ cách làm, vài ngày là xong thôi.
  • Dạ. Vậy ổn rồi, mời anh vô nhà em uống nước.

Anh Hai là anh con bác ruột tôi, năm nay anh đã qua cái tuổi “cổ lai hy” nhưng tinh thần vẫn rất minh mẫn. Những năm chống Mỹ, anh là lính của Quân khu 5, trước khi về hưu được thăng quân hàm đại tá. Hồi trước bảy lăm, gia đình bác tôi sống ở gần Ngũ Hành Sơn, là một cơ sở cách mạng. Bác có ba người con, anh Hai đi thoát ly, trở thành anh giải phóng quân; chị Ba và anh Út khi đó còn nhỏ tuổi nhưng cũng tham gia cách mạng, công việc rất đơn giản là canh chừng lính Mỹ và lính Việt Nam Cộng hòa để báo cho bác tôi truyền thông tin đến các cán bộ đang ẩn nấp dưới căn hầm bí mật…

Anh em chúng tôi ngồi trò chuyện thân mật, hỏi thăm tình hình gia đình và công việc của nhau, sau cùng anh nói:

  • Anh đã đọc cuốn “Thu Bồn lặng sóng” của em rồi, anh  rất  thích  vì có hình ảnh người lính, lại là những người trong họ hàng nhà ta. Nhưng có điều anh thấy đáng tiếc, là em chỉ thiên về miêu tả cái tình người trong chiến tranh, mà bỏ qua những gian khổ ác liệt mà quân và dân Quảng Đà từng trải qua trong kháng chiến, có đúng vậy không?

Tôi giật mình. Lưỡng lự một chút, tôi đáp:

  • Dạ anh nói đúng đó ạ. Vì em nghĩ đã nhiều người viết về chiến tranh, miêu tả sự tàn khốc đến kiệt cùng rồi, họ có nhiều trải nghiệm và cứng cỏi hơn em, nên em không dám đào sâu mà chỉ lướt qua thôi anh ạ.
  • Em sai! Mỗi người một suy nghĩ, một cách nhìn nhận về chiến tranh, em không nên bỏ qua vấn đề này, và lưu ý cách viết để ngày một nâng cao tay nghề hơn nhé…

Nói xong câu ấy anh liền  đứng dậy đi ra ngoài, tôi cũng ra vườn theo anh. Nắng cuối Đông rải sắc vàng lên những nhành cây, toả ánh sáng lấp lóa trên vòm lá. Vài chú chim sâu nhảy nhót chuyền cành, thấy bóng người vội bay vút lên cao… Anh nhìn lên cây mai đã lác đác vài bông hoa trổ sớm, quay sang nói với tôi:

  • Anh nhớ không nhầm thì cây mai này cũng gần năm mươi năm rồi, đúng không?
  • Dạ đúng rồi Cây mai ba em trồng khi mới về quê, sau ngày thống nhất.
  • Anh nhớ mà, khi ấy ba anh cũng về quê, hai anh em gặp nhau, ôm nhau khóc oà vì xúc động. Đã hơn hai mươi năm mới có ngày hôm ấy… Ba em dựng ngôi nhà nhỏ trên mảnh đất này, trồng trước sân nhà một cây mai, một cây đào… Cây đào bây giờ không thấy nữa nhỉ?
  • Dạ, anh nhớ kỹ ghê. Cây đào không hợp đất đai khí hậu, nó sống được có vài năm thì chết rồi anh ạ.

Anh dạo quanh khu vườn một lúc xem cây cối, rồi ra xe lấy một quyển sổ đem vào. Tôi liếc qua thấy quyển sổ mỏng đã sờn gáy, bìa loang lổ những vết ố vàng. Anh chìa trước mặt tôi:

  • Đây là cuốn hồi ký của Anh giữ nó suốt mấy chục năm nay, như một kỷ vật quý báu. Anh đưa nó cho em xem, nếu cần, em có thể dùng làm tư liệu…

Tôi đưa hai tay nhận lấy cuốn hồi ký, vô cùng cảm động. Tôi nói với anh:

  • Dạ, em cảm ơn anh, em sẽ đọc và ghi chép lại, rồi em sẽ gửi lại anh sau.
  • Ừ. Em cứ đọc và chép tuỳ thích, Tết anh về em đưa trả lại cho Nhớ là sau này phải viết cho thật hay đó nghe.
  • Dạ.
  • Thôi anh phải đi công việc, chào em! - Dạ. Em chào Tết nhớ về quê nghe anh.
  • Tất nhiên rồi.

* * *

Tôi cẩn thận đọc từng trang hồi ký, do anh hồi tưởng và ghi lại những câu chuyện xen lẫn cảm xúc từ những ngày mới thoát ly gia đình đi kháng chiến, vào khoảng tháng Năm năm 1969, cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Tôi đặc biệt chú ý đến những trang anh viết về thời điểm mở chiến dịch Huế

  • Đà Nẵng cho đến khi kết thúc vào chiều ngày 29 tháng Ba:

“Ngày 20-3-1975, Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà nhận được điện của cấp trên: “Tích cực chuẩn bị mọi mặt, sẽ chuyển hướng chiến trường về phía Quảng Đà”. Chiều hôm đó mình được đơn vị cho về nhà, thực ra là đi làm nhiệm vụ gặp các đồng chí biệt động thành, có mấy anh em đang ở trong căn hầm bí mật của gia đình. Mình đi là tiện nhất. Cải trang thành thường dân, mình về đến nhà đúng 11 giờ đêm, ba nhận được tín hiệu liền ra mở cửa. Cả nhà mừng vui sung sướng như thấy mình trở về từ cõi chết. Chặp sau ba hỏi:

  • Con về đột ngột vậy có việc chi?
  • Cấp trên giao cho con liên lạc với các anh em, chuẩn bị cho một chiến dịch lớn. Hiện nay quân đội Mỹ đã rút khỏi miền Nam Việt Nam, vùng Tây Nguyên đã được giải phóng thì chắc chắn chiến dịch này chúng ta sẽ thắng lợi ba à.
  • Ừ, ba cũng mong như vậy, bà con ai cũng trông thoát khỏi cảnh loạn lạc ni lâu lắm rồi con ơi…”

“Ngày 26-3, chiến dịch mở màn. Anh em toàn đơn vị nhất loạt giơ cao nắm tay thề, quyết tâm giành thắng lợi!

Trước nguy cơ bị bao vây tiêu diệt, phía Mỹ buộc phải lập cầu hàng không di tản cơ quan lãnh sự ở Đà Nẵng về Sài Gòn, khiến tinh thần binh lính địch càng thêm rối loạn. Ngược lại, tinh thần của chiến sĩ trong toàn đơn vị càng hăng hái phấn khởi bội phần.

Rạng sáng ngày 29-3, quân ta tập trung 30 khẩu pháo lớn của Quân đoàn 2 và Quân khu 5 bắn vào các khu vực Hòn Bằng, Trà Kiệu, Vĩnh Điện, sân bay Đà Nẵng, cảng Sơn Trà, sân bay Nước Mặn..., kịp thời chi viện cho các mũi bộ binh, xe tăng tiến công từ nhiều hướng: Hướng bắc theo đường số 1 đột phá qua đèo Hải Vân, chiếm kho xăng Liên Chiểu, thọc sâu vào Đà Nẵng ra bán đảo Sơn Trà, đánh chiếm được quân cảng; hướng tây bắc theo đường số 14 tiến công làm chủ Phước Tường, Hòa Khánh và Sở chỉ huy Sư đoàn 3 của địch. Tiếp tục phối hợp đánh chiếm đài phát thanh và Tòa thị chính rồi phát triển ra bán đảo Sơn Trà; hướng tây nam đập tan địch ở Phú Hương, Đồng Lâm, truy kích về Ái Nghĩa, chiếm trung tâm huấn luyện Hòa Cầm và phối hợp đánh chiếm sân bay Đà Nẵng; hướng nam đánh chiếm các khu vực Bà Rén, Duy Xuyên, Nam Phước, Vĩnh Điện rồi phát triển vào Đà Nẵng, chiếm sở chỉ huy Quân đoàn 1, Sư đoàn không quân 1 và sân bay Đà Nẵng; hướng đông nam làm chủ thị xã Hội An, khu Non Nước, căn cứ hải quân, phối hợp đánh chiếm sân bay Nước Mặn...

…Khoảng 13 giờ 30 phút này 29-3- 1975, Trung đoàn 18 từ Huế đã vượt đèo Hải Vân tiến về phối hợp đánh chiếm quân cảng Đà Nẵng. Quân ta thu hàng trăm tàu chiến, hàng trăm xe tăng, hàng nghìn khẩu pháo, súng cối và một khối lượng khổng lồ vật chất hậu cần, kỹ thuật…

…Đến 15 giờ ngày 29-3, quân ta chiếm cụm thông tin viễn thông của địch trên núi Sơn Trà, giải phóng bán đảo Sơn Trà.

…Đến 17 giờ ngày 29-3 chiến dịch kết thúc, ta giải phóng hoàn toàn thành phố Đà Nẵng và các vùng phụ cận…

…Chiều 29 tháng Ba, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Tòa thị chính nằm trên đường Bạch Đằng. Ba mình kể rằng chiều hôm ấy, khi tiếng súng đã im, bỗng nghe những tiếng reo hò chen với những tiếng gào khóc, ông liền chạy ra bờ sông Hàn xem xét tình hình. Nhìn sang bên kia thấy lá cờ của Mặt trận tung bay trên nóc Tòa thị chính, ông đã bật khóc, khi ấy ông mới thực sự tin rằng quân ta đã hoàn toàn thắng lợi. Mấy ngày trước đó các anh cán bộ đã rời khỏi căn hầm bí mật khiến ông lo mất ăn mất ngủ, lại chẳng nghe chẳng biết được tin tức gì. Nay thấy bóng cờ Mặt trận Giải phóng tung bay, cả nhà sung sướng mong ngóng tin mình. Cuối cùng thì sự mong chờ cũng đã thỏa niềm hy vọng, cả gia đình hân hoan khi thấy “anh bộ đội Giải phóng quân” hiên ngang khoác ba lô bước vô nhà, trên áo vẫn còn vương mùi thuốc súng. Mình chỉ tranh thủ về thăm nhà được đúng một tiếng đồng hồ rồi phải nhanh chóng trở về đơn vị để tiếp tục hành quân. Khi ấy mình vui mừng biết rằng, cả ba má và con Xíu, thằng Út đều tham gia cùng các đơn vị trong ban dân vận, là đoàn Thanh niên, hội Phụ nữ…lo chuẩn bị các món quà và nấu cơm đun nước để đón đoàn quân thắng trận, rồi họ lại tiếp tục tiễn đưa các đoàn quân lên đường tiến về Sài Gòn…

…Niềm vui lớn nhưng không trọn vẹn. Thằng T. quê Đại Lộc, thằng M. người Tiên Phước đã hy sinh chỉ sau hai ngày chiến dịch mở màn. Thằng là đứa em họ con chú Tám hy sinh đúng ngày 29 tháng Ba… Mình vĩnh viễn mất đi những người anh em đã từng chung một chiến hào, với bao kỷ niệm và những mơ ước về ngày toàn thắng… Đau lòng lắm các cậu ạ... Dù âm dương cách trở nhưng mãi mãi chúng mình là bạn, là đồng chí. Đất nước Hòa bình Thống nhất rồi, mình sẽ tìm về quê, thay mặt các cậu lo cho gia đình bố mẹ và các em…”

Những trang hồi ký của anh Hai - một chiến sĩ quân Giải phóng - đã ám ảnh tôi. Tôi tự hứa với anh và với chính mình, sẽ cố gắng viết một câu chuyện dài, tái hiện được phần nào những hình ảnh của chiến tranh, vừa khốc liệt vừa hào hùng; vừa thấm đẫm đau thương nhưng cũng rất vẻ vang. Những thế hệ mai sau sẽ soi mình và biết ơn những lớp người đi trước, để họ hiểu rằng, mỗi tấc đất mang hơi thở của hòa bình hôm nay đã thấm bao mồ hôi và xương máu của các thế hệ cha anh…

* * *

Giao thừa. Những chùm pháo hoa bay vút lên không trung, toả ra thành muôn vàn vì sao lấp lánh chào đón thời khắc thiêng liêng của đất trời buổi giao hòa. Đất nước đã vào Xuân. Lòng người khắp nơi hân hoan náo nức.

Sáng mồng Một Tết.

Điện thoại có tín hiệu nhấp nháy sáng, tôi đoán có người chúc mừng năm mới liền mở ra xem. Tôi nhận được tin nhắn của chị Hai báo về: “Anh Hai vừa nhập viện Quân Y, cả gia đình chị đang túc trực để lo cho anh. Tết này anh chị không về được, em thông báo với bà con giúp chị nhé!”.

Tôi vội vàng nhắn tin hỏi lại: “Anh bị sao vậy chị?” Chị trả lời: “Bệnh cũ tái phát em ạ. Vết thương trong lồng ngực gây sức ép tim, bác sĩ báo cho người nhà là bệnh tình rất nặng…” .

Tôi bàng hoàng, đúng là một cú sốc ngay ngày đầu năm mới! Từ chiến trường về, di chứng của vết thương do mảnh đạn gây nên khiến anh nhiều phen đau đớn nhức nhối, nhất là những khi trở trời. Mấy năm nay anh có vẻ yếu hơn nhiều, chắc do tuổi tác ngày một cao…

Lời hứa hẹn về quê trong dịp Tết của anh năm nay đã không thành hiện thực. Rồi năm sau, những năm sau nữa, những người như anh, những chiến sĩ đã để lại một phần xương thịt ở chiến trường liệu có còn về quê ăn Tết?

Tôi nhìn ra vườn, cây mai đã đơm bông vàng rực, sáng cả một vùng không gian. Lòng bồi hồi nhớ ba tôi, thương anh Hai và nghĩ đến những người đã trồng cây cho chúng tôi ngắm hoa hái trái mà lòng buồn vô hạn. Tôi cầm cuốn hồi ký của anh, khẽ lật giở từng trang, từng trang… Một cơn gió thoảng qua, những cánh mai rơi lả tả, có một cánh mai vàng bay vào đậu giữa trang giấy màu mực đã phôi phai…

T.T.H

Bài viết khác cùng số

Phấn đấu thực hiện đạt hiệu quả các hoạt động Văn học - Nghệ thuật giai đoạn 2024-2029Độc đáo hình tượng con Rắn trong nghệ thuật tạo hìnhHình tượng rắn trong văn hóa ViệtĐà Nẵng những năm Tỵ dưới thời Pháp thuộcVăn nghệ sĩ - Người sáng tạo tác phẩm và lan tỏa các giá trị nhân vănBác Hồ và những mùa xuân kháng chiếnChuyện về "Dung cá trích"Khát vọng mùa xuân - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộcNhịp cầu xanh Sơn TràNhớ một chuyến điĐà Nẵng xuânDấu xưa Cẩm HàVàng hoa một thuởSông Hàn - Một dòng nhịp sốngMưa xuânLời hẹn mùa xuânTết này con sẽ vềNhững mảnh trăng hao khuyếtMiền nắng ấmHồng hươngThanh xuân vời vợiTôi đi trên đường phố sáng nayCánh én mùa xuânNgồi chờ xuân tớiBí ẩnMùa xuân lên Tây BắcChấm phá TếtVũ điệu biểnSáng mùng Một lên chùa Linh ỨngBốn mùa cửa lớpPhố quậnMột ngàyNhững người phụ nữNgọn gió xuânNgẫu cảmTháng GiêngMùa xuân đang chờTằm còn nhả tơ...Mùa xuânNghệ sĩ nhiếp ảnh Huỳnh Văn Truyền: Không ngừng sáng tạo và dấn thânKhông gian mùa xuân trong thơ ĐườngNiềm vui Châu về Hợp PhốTống Thị trong tiểu thuyết Kỳ nữ họ Tống: người đẹp giữa đôi bờ thiện - ácDung dưỡng tâm hồn từ ký ức quê hươngLục bát Nguyễn Nho KhiêmMùa xuân, đọc thể hành và những bài hành hay trong văn học Việt NamĐi tìm chân dung sĩ phu xứ QuảngVài nét về phong trào văn nghệ trước khi thành lập Hội Văn học - Nghệ thuật Quảng Nam - Đà NẵngĐiệp khúcĐại hội Đại biểu Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng lần thứ X, nhiệm kỳ 2024-2029Hát khúc xuân caĐà Nẵng xuân yêu thương