Hình tượng rắn trong văn hóa Việt
Thạch Sanh đại chiến chằng tinh. Nguồn Maurice Durand,1952.
Rắn là hình tượng phổ biến trong văn hóa của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới với những hình thức và ý nghĩa khác nhau. Trong văn hóa người Việt, hình tượng rắn xuất hiện với nhiều biến thể như rắn, trăn, chằn tinh, giao long, thuồng luồng, thậm chí là rồng. Mỗi một biến thể, hình tượng rắn thường mang những ý nghĩa nhất định và phản ánh cả hai mặt tốt xấu, thể hiện thông qua tín ngưỡng, văn học dân gian, phong tục tập quán, mỹ thuật, tạo hình…
Trong tín ngưỡng dân gian, rắn được coi là thủy thần, điều này xuất phát từ các ý niệm về sông nước của cư dân nông nghiệp. Từ nỗi kính - sợ sức mạnh của sông nước, người Việt sợ và thờ cúng thần sông nước với hiện thân xa xưa nhất là loài rắn nước vùng sông hồ, có thân uốn khúc tương đồng với hình dáng của dòng sông, với chuyển động của sóng nước cũng như với hình tia chớp trong cơn mưa. Cho đến ngày nay, vẫn còn chứng tích về tục thờ rắn ở dọc các con sông lớn như: sông Hồng, sông Đuống, sông Cầu,… Với quan niệm rắn là thủy thần, chúng có hai thuộc tính tốt và xấu. Rắn là vị thần nước giúp mưa thuận gió hòa, mang điềm lành và báo điềm dữ. Ở mặt ngược lại, rắn là con vật tinh quái phá hoại mùa màng và cuộc sống của người dân. Cho dù rắn có mang thuộc tính nào đi chăng nữa thì họ vẫn một lòng kính trọng và thờ phượng.
Thần Visnu và rắn Naga 13 đầu trong văn hóa Champa. Ảnh: Lê Trí Công
Tương tự một số quốc gia trên thế giới, hình tượng rắn của người Việt cũng gắn với đạo Mẫu, gắn với sự sinh sôi, nảy nở, che chở và bảo vệ. Điều này được thể hiện trong nhiều đền thờ Mẫu, chúng được điêu khắc để thờ phụng, là vị thần cai quản thiên giới cùng các vị Mẫu. Huyền thoại về rắn gắn liền với đạo Mẫu có rất nhiều tích, liên quan đến nghi lễ cầu thai giúp vạn vật sinh sôi nảy nở. Trong đồ mã cúng Mẫu bao giờ cũng có rắn ba đầu hoặc rắn Tam đầu cửu vĩ... Có người cho rằng, rắn ba đầu chính là mô phỏng rắn thần Naga của Ấn Độ do những ảnh hưởng giao thoa văn hóa giữa người Việt với người Chăm trong tiến trình lịch sử...
Trong truyện cổ Phật giáo, rắn còn được xem là vị thần hộ vệ bảo vệ Đức Phật. Sự tích kể rằng, trong Bảy ngày tu đầu tiên của Đức Phật, khi ngài đang tọa thiền dưới cội Bồ Đề thì một cơn mưa trái mùa như trút nước dội xuống thân thể ngài, đúng lúc đó một vị vua rắn Naga bò ra khỏi nơi trú ẩn của mình, cuộn mình thành bảy vòng tròn, nâng Đức Phật lên khỏi dòng nước đang chảy xiết và dùng bảy chiếc đầu của mình làm thành một chiếc tán che cho Đức Phật.
Dân gian còn có nhiều quan niệm với hiện tượng rắn bất ngờ xuất hiện. Khi bị rắn bò vào nhà, nhiều người tin rằng gia đình sẽ gặp phải biến cố tai ương, phải đề phòng bị kẻ thù hoặc kẻ tiểu nhân hãm hại. Nếu phát hiện rắn ở lăng mộ, bàn thờ hoặc gầm giường được coi là điềm không lành về việc âm, phải chú ý hơn đến mồ mả của gia tiên. Nếu đang đi đường mà bắt gặp rắn bò ngang sang đường, đó là điềm xấu dự báo người này có thể gặp rủi ro bất trắc hoặc bị hãm hại. Đặc biệt, rắn được xem là loài vật rất linh thiêng và có tính trả thù cao, do đó nếu thấy rắn bò vào nhà mà không tấn công người thì không nên giết mà chỉ nên đuổi chúng đi.
Rắn xuất hiện trong thần thoại, truyện cổ tích với nhiều ý nghĩa vừa có mặt tốt đẹp vừa có mặt xấu xa. Một thống kê gần đây cho biết, trong Kho tàng cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, trong tổng số 200 chuyện thì đã có 11 chuyện đề cập đến hình tượng rắn hoặc các biến thể của rắn như giao long, thuồng luồng, chằn tinh... trong đó có những chuyện ca ngợi sự giúp đỡ của rắn đối với con người, một số truyện khác lại nói đến việc rắn hại người. Qua đó có thể thấy rằng rắn có một vị trí khá quan trọng đời sống văn hóa tâm thức của người dân Việt Nam. Rắn xuất hiện với biến thể là giao long có thể tìm thấy trong truyền thuyết “Lạc Long Quân”, huyền thoại “Linh Lang Vương”,… Trong hình hài là giao long, rắn dường như được phủ lên một lớp văn hóa muộn, bởi nó đã bước đầu nhuốm màu sắc phong kiến. Mặc dầu những biểu hiện bề ngoài của giao long chưa có cái uy nghiêm, oai phong của rồng, song nó đang từng bước tiến tới những ý nghĩa biểu trưng của sức mạnh thần quyền và vương quyền. Có ý kiến cho rằng giao long mang nhiều ý nghĩa với tục thờ cúng tổ tiên, liên quan đến tục người Việt cổ thường xăm mình khi xuống nước để không bị giao long ăn thịt, lâu dần coi đó là tổ tiên… Rắn là con vật có thật trong tự nhiên song nó là hình mẫu khởi thủy của rồng (bởi vì rồng chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng).
Truyện cổ tích “Rể trăn”, thì xuất hiện hai con trăn hoàn toàn đối lập nhau, một con là hiện thân của chàng trai có diện mạo đẹp đẽ, hiền lành, tốt bụng, con còn lại có hình hài gớm giếc chuyên đi hại người. Con trăn hiền lành biết giúp đỡ người khác dễ dàng nhận được tình cảm yêu mến của con người, trong khi con trăn chuyên đi hại người bị nhận kết cục tồi tệ là cái chết. Hay như trong huyền thoại “Thần Tản Viên”, rắn xuất hiện trong vai trò là con trai vua thủy tề bị trẻ trăn trâu đánh chết vứt bên bờ sông được một chàng trai tốt bụng cứu sống sau rắn quay lại hậu tạ… Rắn trong huyền thoại “Thần Tản Viên” là mô-típ phổ biến phản ánh tâm thức tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp. Rắn ở đây được đồng nghĩa với các vị thần nước, thần sông, thần suối.
Trong truyện cổ tích “Thạch Sanh” thì rắn được thể hiện một vị thần xấu. Mặc dù có nhiều dị bản khác nhau nhưng nội dung truyện đều kể về một con mãng xà tinh (hay chằn tinh) tu luyện lâu năm chuyên đi hại người. Mỗi năm, dân làng phải nộp cho chằn tinh một mạng người, song cuối cùng nó bị tiêu diệt bởi chàng Thạch Sanh hiền lành, dũng cảm. Dưới hình dạng của trăn hay chằn tinh, rắn thường biểu trưng cho thế lực cái ác, phản ánh ước nguyện của dân chúng trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Trong đó người hiền lành, tốt bụng sẽ gặp điều may mắn, những kẻ độc ác, gian dối thì bị trừng trị. Không chỉ để lại ấn tượng sâu sắc trong lĩnh vực văn học, tích chuyện Thạch Sanh đánh chằn tinh hiện còn được lưu lại trong dòng tranh dân gian Đông Hồ.
Trong truyền thuyết “Sơn Tinh, Thủy Tinh”, rắn lại xuất hiện dưới hình hài là những con thủy quái hay còn gọi là thuồng luồng - đại diện cho thế lực siêu nhiên mang theo những hiểm họa đe dọa mùa màng và sự sinh tồn của con người. Sự chiến thắng của Sơn Tinh trong truyện phản ánh tín ngưỡng nguồn nước và ước vọng ngàn đời của các cư dân nông nghiệp lúa nước…
Ở lĩnh vực mỹ thuật, tạo hình, theo nhà nghiên cứu văn học dân gian Chu Quang Trứ, rồng bắt nguồn từ rắn. Các nhà nghiên cứu Trương Chính và Ðặng Ðức Siêu nhận định, con rồng thời Lý - Trần là một con rắn dài, quấn làm nhiều khúc, đầu không sừng, không râu. Còn GS. Trần Quốc Vượng thì cho rằng, hình tượng con rồng ở Thăng Long Ðại Việt là loại rồng - rắn, mình tròn trịa và thanh tú, với nhiều khúc uốn lượn nhịp nhàng, là loài có vẩy, ở nước và cũng tượng trưng cho nước, cho mây mưa, vốn là cái nhân tố bận tâm hàng đầu của người dân trồng lúa nước.
Trong ngôn ngữ dân gian, hình tượng rắn cũng có mặt khá dày đặc trong tục ngữ, thành ngữ... Dân gian dùng chúng để phản ánh nhiều mặt của cuộc sống. Vừa để khen tặng và có khi là phê phán tật xấu của người đời. Những kẻ trâng tráo, mắt luôn thao láo liếc ngang, nhìn dọc thì được ví là: “Thao láo như mắt rắn ráo”. Hay để nói về mối quan hệ xử thế của kẻ độc ác như rắn rết không thể chung sống với nhau được, nhất là cóc, nhái là đối tượng luôn bị chúng rình mò để ăn thịt có câu “Rắn rết bò vào, cóc nhái bò ra”. Để chê bai kẻ vô tích sự, chẳng làm nên việc gì mà còn bày vẽ lãng phí, tốn công sức, tiền của, lại còn phản tác dụng thì nói “Vẽ rồng vẽ rắn”. Trong cuộc sống khi gặp tai ương thì than “Hùm tha rắn cắn”. Gặp kẻ đạo đức giả, miệng nói thương người, lòng dạ ác hiểm, hãm hại kẻ khác thì bảo “Khẩu Phật tâm xà”, gặp người ngoài miệng bốp chát nóng nảy, nhưng bản chất bao dung, lòng dạ thẳng ngay, nhân đức thì nói “Khẩu xà tâm Phật”. Để phê phán những người có hành động lén lút, sợ sệt: “Len lét như rắn mùng năm”; kẻ hay bịa đặt, ba hoa quá sự thật: “Vẽ rắn thêm chân”. Nơi nhiều nguy hiểm thì nói “hang hùm miệng rắn”. Đối với những kẻ phản bội gia đình, Tổ quốc, người người căm ghét thì bóng gió: “Cõng rắn cắn gà nhà”...
Trong đồng dao, ca dao, câu đối của người lao động xưa cũng có nhiều hình ảnh đề cập đến rắn. Người dân coi chúng như hình ảnh mang tính kinh ngiệm dự báo: “Bao giờ cho đến tháng ba/ Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng”, “Rồng rắn lên cây, có cây núc nác, có nhà hiển vinh”. Để nói về bản chất sự việc, dân gian dùng hình ảnh rắn để so sánh “Cây xương rồng, giồng đất rắn, long vẫn hoàn long/ Quả dưa chuột, truột một gang, thử ăn thì thử!”. Từ hình tượng của “rắn không chân”, tác giả dân gian còn muốn thể hiện sự khẳng khái dành cho kẻ bản lĩnh, vượt khó khăn, thách thức “Rắn không chân rắn bò khắp rú/ Gà không vú răng nuôi đặng chín mười con”.
Trong ca dao hình tượng rắn biểu tượng cho được cho tình yêu đôi lứa. Khi mới gặp nhau, nàng về nhà trăn trở: “Rắn có chân rắn biết/ Ngọc ẩn đá ngọc hay/ Anh cùng em mới gặp nhau đây/ Biết thời biết mặt nào hay trong lòng”; Đến lúc duyên nồng tình mặn, họ thề nguyền chung thủy, son sắt: “Đôi ta như rắn liu điu/ Nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau”; Đến lúc tương tư, rắn cũng có mặt trong nỗi nhớ thương của họ: “Con quạ đen con cò trắng/ Con ếch ngắn, con rắn dài/ Em trông anh trông mãi, trông hoài/ Trông cho thấy mặt thấy mày mới yên”; Khi tình sâu, nghĩa nặng, vượt cả những khó khăn, trắc trở: “Con rắn không chân, con rắn biết/ Đá có ngọc ẩn, thì đá hay/ Tội thì thiếp chịu, vạ chi lây tới chàng?”.
Như một quy luật muôn thuở, mối tình nào rồi cũng đến hồi kết thúc, lứa đôi chia lìa, nguyên nhân “tại”, “bị”, có đến hàng trăm, hàng nghìn, một trong số đó có cả chuyện “rồng rắn” chẳng thể hộ đối môn đăng: “Con công ăn lẫn với gà/ Rồng kia rắn nọ, xem đà sao nên?”; Cũng có những cảnh “tao ngộ” oái oăm, thậm chí đáng bị lên án, song nếu xét ở chiều sâu nhân bản, cảnh ngộ “nồi náo úp vung nấy” thì cũng đáng được cảm thông: “Con chi rọt rẹt sau hè/ Hay là rắn mối tới ve chuột chù?”.
Trong ẩm thực, thịt rắn cũng được coi là một món ăn đặc sản. Dân gian có câu: “Cần chi cá lóc, cá trê/ Thịt chuột, thịt rắn nhậu mê hơn nhiều”. Thịt rắn nấu chung với thịt mèo là món ăn “Long hổ đấu” nổi tiếng, nấu chung với thịt gà là món “Long phụng phối”.
Tuy có nhiều món ngon được chế biến từ thịt rắn nhưng người dân cũng lưu truyền lại những kiêng cử. Khi làm thịt rắn hổ, tuyệt đối không được dùng tấm thớt làm bằng gỗ me để xắt, chặt. Theo dân gian hai thứ này “đại kỵ”, nếu không hiểu vô tình “phạm” phải, người ăn thịt rắn hổ ấy sẽ khó qua khỏi. Hoặc khi nấu cháo rắn hổ, dân gian còn tuyệt đối cấm kỵ không để cho bồ hóng lọt vào. Bồ hóng là những sợi màu đen hình thành do quá trình của khói bếp bám vào dây, lạt. Nếu bồ hóng rớt vào nồi cháo, người không biết ăn vào cũng nguy tới tính mạng.
* * *
Có thể thấy, rắn không phải là loài vật nuôi nhưng lại xuất hiện dày đặc trong đời sống văn hóa người Việt. Thông qua tín ngưỡng, truyện kể, tục ngữ, thành ngữ, tranh dân gian,… người Việt đã phản ánh hình tượng con rắn gắn liền với mọi khía cạnh trong đời sống của con người qua hai thuộc tính đối lập tốt - xấu. Chúng vừa có những đặc tính tốt là vật linh, thông minh tựa một chiến binh, kẻ bảo hộ, vừa thể hiện những mặt nguy hiểm nên người dân phụng thờ cầu mong tránh những tai ương.
H.T.H