Lục bát Nguyễn Nho Khiêm
Nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm
1. Lục bát dễ làm khó hay, khó trong cái dễ, khó trong khuôn khổ lệ luật (cả biến thể), khó khi người Việt nào cũng có thể làm được câu lục bát, càng khó cất bút trước những tượng đài thi ca lục bát sừng sững: Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm khúc (bản dịch), Lục Vân Tiên, Nguyễn Bính, Huy Cận,… và ca dao. Một trong những đặc điểm thể loại dễ nhận diện của thơ Nguyễn Nho Khiêm là lục bát, hình như nó hợp với cái tạng làm thơ như niềm vui thú tự nhiên mà không chịu một áp lực nào, cảm xúc cứ tự nhiên đến, tự nhiên trôi trên bước lãng du khiến liên tưởng đến chàng Vương Bột thời Đường: Tích niên kim nhật thử môn trung/ Nhân diện đào hoa tương ánh hồng...
Đọc trên trăm bài, trên dưới ngàn dòng của 6 tập thơ đã in và 1 tập thơ lục bát sắp in(1) của Nguyễn Nho Khiêm, tôi chọn khoảng trăm dòng. Nhiều ít không biết nữa, hay dở tùy người đọc. Không thiên trọng chủ đề hay tư tưởng nào, không dụng công gọt giũa, lục bát Nguyễn Nho Khiêm là cảm xúc chảy tràn; do đó, để có cái nhìn khái quát, chỉ ra đặc trưng lục bát Nguyễn Nho Khiêm là chuyện khó. Ngay cả chọn ra những bài thơ nổi trội cũng là một thử thách. Vậy xin hạn định cảm nhận của mình về những câu, những dòng lục bát ấn tượng Nguyễn Nho Khiêm.
Lục bát hay toàn bích, toàn bài, toàn tập, toàn truyện (thơ) Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu là chuyện không tưởng. Truyện Kiều vẫn có nhiều câu chỉ nhằm dắt dẫn mạch truyện; Chinh phụ ngâm (bản dịch song thất lục bát) nhiều đoạn điển tích cốt để lấy ý; Lỡ bước sang ngang đâu phải đoạn nào cũng mới lạ cuốn hút… Lục bát ấn tượng và sáng tạo là ở đơn vị câu; từng dòng từng câu ghép thành đoạn thành bài; nhiều câu hay thì có bài hay và ngược lại. Cho nên, thơ ca dân gian rất ít có tác phẩm lục bát dài hơi - vừa do bối cảnh sáng tác, trình diễn vừa tác giả (vô danh) sớm ý thức rằng chuỗi ngọc mười bốn hạt lóng lánh của dân tộc đâu có nhiều mà thỏa sức chưng diện!...
2. Lục bát Nguyễn Nho Khiêm bảng lảng hình bóng quê nhà,
quê người khi trở về hoặc một ngày đến nơi tìm đến. Nguyên nhân, nguyên cớ thì nhiều, như trong Đêm sương, có lẽ đơn thuần là một lần trốn lánh: Rời phù hoa trở về quê/ Quê hương ghẻ lạnh cõi mê lầm nào? Đến Bài thơ cuối năm, là sự nghi ngại: Chiều qua mình lại hỏi mình/ Hỏi rằng sao lại thình lình đến đây? Câu trả lời sẽ ở đoạn sau: Một ngày biển sẽ đi xa/ Sóng xưa còn vọng thiên hà về nhau. Ý thức về khoảnh khắc, bất chợt, hữu hạn thúc giục khiến nhịp điệu câu thơ lục bát không chậm rãi như thường thấy, câu hỏi dồn dập thúc ép vọng đáp. Một hình ảnh đơn giản trong dòng lục nhanh chóng biến thành mơ hồ khó cắt nghĩa ở dòng bát: Về đây sung rụng bất ngờ/ Rảnh tay nhặt một giấc mơ gió đùa (Giấc mơ gió đùa). Giấc mơ ấy là ám ảnh trổi dậy từ quá khứ, từ dấu vết khó tàn phai, chân thành và nếm trải:
Quắt quay thương tuổi lên mười Trời bom dội một nụ cười thơ ngây Hố sâu máu thắm chảy đầy
Chiến tranh cắt đứt sợi dây
nối diều...
(Cánh diều quê) Xưa xa trở về và hiện tại phút chốc mù tăm khi nhà thơ Thăm làng cổ Đường Lâm: Rằng em cổ tích trong tôi từ rày... hay ngày Trở lại Phá Tam Giang: Hôm qua chưa đón bình minh/ Nhón chân mùa chuyển thình lình hoàng hôn. Lục bát Nguyễn Nho Khiêm có thế mạnh ở những đối sánh - liên tưởng nên sự vật mô tả tuy bình thường lại có sức chuyển biến đột ngột. Lúc Dạo chơi cầu Long Biên, chỉ cần một dòng - Chen nhau xe cộ thất thanh và có thêm 6 chữ nữa
- Rồi trôi trong cuộc lụi tàn, để cuối bài buông lời nhẹ tênh không phải để trút bỏ bụi lầm mà thấu cảm, sẻ chia:
Khúc chiều xanh giữa cỏ hoa/ Chắp tay ngồi tiễn bóng tà dương bay… Nhặt ra 4 dòng ấy, được một bài thơ hoàn chỉnh.
Quê nhà trong câu lục bát Nguyễn Nho Khiêm còn là nỗi niềm thường trú. Đang nói chuyện gái đẹp, trong Khúc chiều xanh, bỗng hỏi ngang: Giai nhân lạc nẻo chốn quê quán nào? Lúc Ăn bánh bèo với bạn thơ mà thấm thía nỗi tha hương:
Xốn xang mây trắng ngang đầu
Câu thơ bạn viết rớm màu sông quê
Phiêu du không hẹn ngày về
Phố đông bạn đứng bốn bề
người trôi…
Trong bài thơ Bây giờ, quê hương không chỉ là quê nhà với Nếp nhăn chân trán mẹ già/ Hằn câu lục bát xót xa cánh cò mà còn là câu hỏi không có câu trả lời về nguồn cội, về giấc mơ tái sinh:
Mắt nhìn thăm thẳm âu lo Bây giờ ngồi nhớ ta vò nát ta!
…
Một mai sum họp cội nguồn Nằm mơ thấy hóa con
chuồn chuồn kim.
Từ ưu điểm thể loại, lục bát dễ rơi vào kể lể, thường để cảm hứng lôi kéo. Nguyễn Nho Khiêm cũng không tránh khỏi điều ấy. Cho nên đọc những bài thơ như vậy ta nên đọc lướt và tìm những dòng thơ níu giữ người đọc lại. Đó là những dòng khá giản dị nhưng khiến người đọc phải nghĩ ngợi: Giở trang gia phả mây qua mấy tầng (Thăm vườn An Hiên), Tóc ta dựng bạc đứng ngơ phố buồn (Nhớ Hội An), Nhìn tôi ướt một nụ cười (Thơ tình Hạ Long)…
3. Ẩn hiện dưới nhiều bài lục bát của Nguyễn Nho Khiêm là một tình yêu mờ ảo, mong manh, thoáng qua nhưng trĩu nặng theo cách nói riêng của tác giả. Trong khả năng chịu đựng hữu hạn của mỗi dòng lục bát, thơ tình Nguyễn Nho Khiêm có vẻ chừng mực, nhẹ nhàng. Tặng vật trao nhau nghe to lớn mà như không có gì: Tặng em ngọn gió bảy màu/ Một vầng mây trắng làm cầu ngày xa/ Tặng em và tặng em và.../ Câu thơ không chữ, bài ca không lời (Nhớ Phú Quốc). Vết thương cô đơn hằn sâu lắm thì cũng Tình cờ buổi sáng mồ côi. Có hờn trách, xót xa em cũng coi Anh là người lạ cuối đường mà thôi… Nhưng nếu đọc kỹ thì tình yêu ấy cũng “dữ dằn” lắm, có khả năng phục sinh và tìm về bến giác: Em về rộng một ngày thường/ Từ bi cá chợ rẽ đường về sông
(Săn mây).
Thơ tình lục bát của Nguyễn Nho Khiêm khởi đi từ mối thương cảm tình yêu của kẻ khác, không phải của mình, mình đứng ngoài cuộc, như bài Trương Chi: Bao người đã hát Trương Chi/ Bây giờ tôi nhấm khúc bi thương này hay Chiêm bao gặp Kiều: Buâng khuâng tôi gọi: - Kiều ơi!/ Chỉ nghe cây lá hát lời lá cây... Những bài này không lôi cuốn bạn đọc nhiều, như màn “chào sân” của ngày đầu lên “sới thơ”. Khi thực sự “biết yêu”, đặt một chân vào chốn “tình trường” thì mới viết nổi về Em ảnh cũ như thế này: Thôi đành nhóm lửa thật cao/ Bao nhiêu ảnh cũ đốt vào hư không; mới nhớ kiểu này khi đang Bên em: Chiều mưa xuống góc phố này/ Là tôi nhớ cả ngàn ngày bên em; mới chờ đợi ở Thềm xưa theo cách: Đêm qua anh đến thềm xưa/ Chờ em ướt bảy cơn mưa sông Trà; mới Nghe xót xa khi đặt mình vào tha nhân: Khởi từ phút ấy mong manh/ Cái gì dễ vỡ để dành cho em… Và đặc biệt, cú lạy tạ lạ lùng này - đây là một trong những câu lục bát Ngẫu cảm tài hoa của Nguyễn Nho Khiêm không dễ viết được:
Lạy thùng rác dặm đường qua Cho em nhan sắc nhụy hoa
thơm lừng.
“Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được”(1). Trên đây cũng chỉ là sự“dịch, diễn”của tình cảm riêng tôi khi đọc lục bát Nguyễn Nho Khiêm.
Đà Nẵng, cuối năm 2024
N.M.H
(1) Các tập thơ đã và sắp xuất bản: Khói tỏa về trời, NXB Đà Nẵng, 1994; Bên ngoài cánh đồng, NXB Đà Nẵng 2003; Nắng trên đồi, NXB Đà Nẵng 2011; Bên cửa sổ, NXB Hội Nhà văn 2021; Biến thể, NXB Hội Nhà văn 2021; Tiếng chim xanh biếc, NXB Hội Nhà văn, 2023; Thềm xưa, NXB Hội Nhà văn, 2025 (sắp in).