Vũ Hạnh một nhân cách văn học khó quên

05.01.2023
Hoàng Hương Việt

Vũ Hạnh một nhân cách văn học khó quên

Nhà văn Vũ Hạnh và tác phẩm

Tôi gặp ông cuối năm 2020, khi ông cùng với Giáo sư Mai Quốc Liên, Giáo sư Phan Hoàng đều quê Quảng Nam, và Đại tá, nhà văn Nguyễn Quốc Trung ở Thành phố Hồ Chí Minh có chuyến chu du đất Quảng. Khi ấy, ở nhà anh Phạm Phát, có nhà thơ Thanh Quế, nhà văn Hồ Duy Lệ đến thăm, để nghe ông kể chuyện đông tây kim cổ, vốn như văn chương của ông, lấy xưa để nói nay, lấy xa nói gần. Cũng như ông thường hài hước, khi bạn bè ai đó hỏi, sao “trần ai” vậy mà vẫn như trai tơ, dẻo dai, cường tráng, thì ông trả lời: “sống như thiên nhiên, tự nhiên, như nhiên, giữ tâm hồn cân bằng, thư thái trong bất kỳ hoàn cảnh nào...” thì đi đâu, ở đâu, làm việc gì chẳng được. Vì thế ở tuổi 95, ông vẫn còn cỡi xe máy từ Sài Gòn phóng lên Đà Lạt thăm thú người thân.

Đầu năm 2021, tôi lại nhận được tiểu thuyết “Người nhà trời” của ông gửi tặng. Tôi đọc một mạch, như lúc đọc tác phẩm đặc sắc Bút máu (1958), Chất ngọc, Lửa rừng (1960) của ông, bởi sự cuốn hút từ cốt truyện đến bút pháp nghệ thuật dẫn dắt, dung dị mà sâu cay, ân tình mà nghĩa khí, ẩn chứa lời răn đe, cảnh tỉnh, cũng là cảnh báo đối với con người, nhất là kẻ thù đang dày xéo quê hương, đạo lý làm người. Tôi đọc, rồi hình dung, mường tượng ra ông như một tráng sĩ giữa rừng gươm, mũi đạn của thế lực hung hãn, luôn siết chặt, đe dọa, chực chờ quật ngã, sát hại ông bất cứ lúc nào. Nhưng, như những anh hùng hảo hán trong trang sách hóa thân ông ngoài đời “thấy chuyện bất bình chẳng tha”, xả thân ra tay làm việc nghĩa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Hai lần gặp ông, tay bắt mặt mừng và cuốn tiểu thuyết Người nhà trời còn thơm mùi mực, không ngờ lại là lần cuối cùng, qua hơn 60 năm quen biết ông - tôi đã mất ông! Không cãi lại được mệnh trời. Ông đã đi xa. Ông là nhà văn Vũ Hạnh (Nguyễn Đức Dũng). Một chiến sĩ cách mạng kiên cường trên trường văn, trận bút giữa Sài Gòn xô bồ, tao loạn suốt 20 năm trường thầm lặng chiến đấu vì nước, vì dân.

1.Trong Một chặng đường bút mực, một phần Hồi ký Cũng một kiếp người, chưa in, Vũ Hạnh có kể lại: “Năm 1955, tôi tham gia tổ chức biểu tình đòi hiệp thương thống nhất đất nước, thì bị vây bắt giam cầm ở nhà lao huyện Thăng Bình, Quảng Nam, chịu tra tấn ác liệt, bị còng tay đưa ra lao xá Hội An để chờ ngày an trí tại Côn Đảo. Lợi dụng thời cơ địch sơ hở tôi vội trốn chạy gấp vào Sài Gòn chọn việc dạy học, viết văn, báo chí làm phương tiện để sinh sống, tiếp tục đấu tranh. Kế hoạch thoát khỏi lao tù, tôi đã thuật lại trong hồi ký Cái Tết nhớ đờiđăng trên đặc san Công an thành phố Hồ Chí Minh, năm 1999.

Kể như suốt thời chống Mỹ, tôi là cơ sở ở nội thành Sài Gòn với nhiệm vụ là chống văn hóa nô dịch. Cấp trên chỉ định cho tôi “đóng vai một người quốc gia có đôi chút tiến bộ”, hoạt động đơn tuyến, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu ủy, thỉnh thoảng mới ra mật khu để học tập tình hình vài ngày. Được người quen giới thiệu, sau tiếp xúc với nhiều báo, qua các bút hiệu Minh Hữu, Nguyên Phủ... tôi chọn tạp chí Bách Khoa làm mảnh đất chính cho việc cầm bút, ký dưới các truyện là Vũ Hạnh và các tiểu luận, phê bình là Cô Phương Thảo, sau này ông Lê Ngộ Châu, làm chủ nhiệm, nghe đâu trước kia là một đảng viên Cộng sản. Từ năm 1957 đến 1975, cộng tác với báo này, tôi bị vào tù 4 lần. Ở tòa soạn thỉnh thoảng tôi gặp ông Phạm Ngọc Thảo, bấy giờ là Tỉnh trưởng Bến Tre, qua ông Lê Ngộ Châu nhờ ông Thảo can thiệp với Thiếu tướng Là, Tổng Giám đốc Công an chính quyền ngụy để tôi được trả tự do. Hồi ấy, tôi không hề nghĩ ông Thảo là điệp viên tình báo của cách mạng hoạt động trong lòng địch...

Năm 1958, tôi viết truyện ngắn Bút máu như một tuyên ngôn, trước hết với chính mình, nhưng chủ yếu để phản ứng lại đội ngũ bồi bút đông đảo bấy giờ. Thiếu úy an ninh quân đội Sài Gòn Lương Minh Đức, là bạn cùng học ở trường Chấn Thanh, Đà Nẵng, với tôi biết tin Bút máu và Người nữ tỳ đăng ở tạp chí Bách Khoa đã được in lại tại miền Bắc nhắn nhe tôi không khéo vào tù ngay lập tức, an ninh không để tôi yên. Riêng truyện Miếng thịt vịt tả cảnh nghèo cùng cực của những người dân sống vùng đất cát, nơi gia đình tôi lánh giặc thời chống Pháp, kịch tác gia Vi Huyền Đắc, nhắn mời tôi đến gặp tại nhà, bởi ông tỏ ra thích thú vì cái truyện có nhiều kịch tính. Tôi không hề nói cho ông biết là thời chống Pháp tôi từng là Trưởng đoàn kịch, kiêm soạn giả, đạo diễn, diễn viên chính. Tiếp đó, tôi viết một truyện đường rừng Cái Tết giữa rừng, không ngờ truyện được đón nhận ngoài sự mong đợi, nhiều người lầm tưởng tôi ám chỉ Ngô Đình Diệm, coi Diệm như một cục phân đã trở thành thứ cứu rỗi cho một số người lạc lối, hoang mang dưới chế độ tay sai của ông ta. Ông Huỳnh Văn Lang, khi còn làm chủ bút tờ Bách Khoa, khen tôi viết sâu sắc, hợp với tình hình chính trị, dành cho tôi mối cảm tình đậm đà. Lúc nghe con gái tôi là Phương Thảo, 14 tuổi, bị bắt khi làm giao liên cho Thành đoàn, ông ân cần hỏi tôi để giúp đỡ tiền lo lót cho cháu sớm được tự do. Nhưng tôi không nhận sự giúp đỡ này. Ông Thiên Giang, người đồng hương ở Đà Nẵng, hoạt động cách mạng và chịu tù nhiều năm vừa là nhà giáo, nhà nghiên cứu, chồng của nữ sĩ Vân Trang, về sau cả hai vợ chồng ra vùng giải phóng, đã gửi thư khen ngợi, khi đọc truyện của tôi, còn gọi tôi là “Maxime Gorki của Việt Nam”, khiến tôi thật sự mắc cỡ...

Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời vào năm 1960, anh Vũ Tùng ở Khu ủy bảo tôi sớm chọn một bí danh để giới thiệu trên đài, trong vai phụ trách báo chí nội thành, tôi lấy chữ tiếng Anh là Lucky (có nghĩa may mắn) và bí danh là Hoàng Lục Kỳ. Anh Vũ Tùng đổi lại là Hoàng Thanh Kỳ cho dễ nghe. Tôi liền viết tiểu thuyết Lửa rừng, đăng nhiều kỳ trên báo, nói lên tinh thần bất khuất của các dân tộc đoàn kết chống quân xâm lược và giành thắng lợi cuối cùng.

Theo chỉ thị từ trên, tôi phải hoạt động trong nhiều lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Tôi đã gia nhập Trung tâm văn bút (Pen Club), một tổ chức có hệ thống quốc tế, để mượn diễn đàn này đấu tranh trực diện với kẻ thù qua những lần đăng đàn diễn thuyết. Tất cả các vấn đề trình bày như Cái hậu trong tác phẩm văn chương, Trường hợp hai Nguyễn Du trong đoạn trường tân thành để nói rõ văn chương đích thực là bản sắc dân tộc, truyền thống yêu nước, chống cái ác, hoặc lai căng, bại hoại... Trong một cuộc thi viết kịch bản do Trung tâm văn bút tổ chức, là thành viên Ban giám khảo, tôi bảo vệ và đề nghị trao thưởng cho tác phẩm Bức tranh lõa thể của nữ nghệ sĩ Kim Cương, vì có nội dung chống sự đồi trụy hóa trong văn học nghệ thuật lúc bấy giờ, đã làm cho cô Kim Cương thêm cảm tình với lực lượng cách mạng. Tôi cũng giữ một vai trò cốt cán trong Hội đồng Bảo vệ thanh thiếu nhi và có chân trong Hội Bạn trẻ Việt Nam, mà tờ Hồn trẻ là cơ quan ngôn luận, do tôi làm chủ bút. Ngoài viết bài, tôi cho ra đời các cuốn Cha mẹ bơ vơ, Tuổi trẻ nổi loạn để hưởng ứng sinh hoạt của các tổ chức trên. Vào cuối thời Diệm - Nhu các sách “võ hiệp kỳ tình” đủ loại tung ra thị trường, tuyên truyền bạo lực, hoang đường, tôi liền viết một số truyện võ hiệp nhằm phản bác lại như Bốn bể anh hùng, Anh hùng mặt sắt, Nữ hiệp kén chồng, Kiếm đao ba thước, giang hồ ngàn năm... ký tên Hoàng Thiên Lý, đã xuất hiện trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy, nhật báo Đất Tổ”.

Sở dĩ tôi ghi chép dàn trải và dài dòng, không có sự sắp xếp về thời gian hoạt động của Vũ Hạnh - bởi sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước, tôi mới có dịp gặp lại ông và đọc gần như một nửa những bài viết và tác phẩm của ông trên báo chí, xuất bản, kể cả phim ảnh - nhất là nghe ông kể chuyện về thân phận và cuộc đời gian truân, hào hùng của một cây bút tả xung hữu đột giữa đô thành Sài Gòn đầy rẫy công an, mật vụ, tình báo Mỹ - Ngụy luôn theo dõi, rình rập, nghi ngờ ông đội lốt Cộng sản, giả danh trí thức quốc gia yêu nước, chống chính quyền, bắt giam rồi cho ra tù vì không tìm được manh mối, hay cơ sở bí mật nào liên hệ với ông. Không gì quý bằng người trong cuộc, nhân vật chính bằng những dòng hồi ức, những kỷ niệm rong ruổi, lặng thầm trong ông được bộc bạch, thổ lộ, chân thật như hiện thực vốn có của đời sống - một đời và một thời làm cách mạng lạ lùng nhất của lịch sử chiến tranh nhân dân Việt Nam, trong đó ông là một nhân chứng hiếm hoi.

2. Khi tôi viết mấy dòng này, đúng một năm (2021 - 2022) ngày nhà văn Vũ Hạnh qua đời. Trong tôi ngổn ngang sự kính trọng và thương nhớ ông khi nhìn tấm chân dung ông in trên trang bìa 2 cuốnTuyển tập Vũ Hạnh, nét hào hoa lẫn suy tư hiển hiện ở nụ cười và ánh mắt thầm lặng, đăm đắm xa xôi. Nhớ thời ông dạy văn cho đám học trò chúng tôi ở ngôi trường tản cư Quế Sơn 2. Rồi hòa bình 1954, sang 1955, ông cùng các thầy hướng dẫn chúng tôi tham gia cùng đồng bào lăn xả đấu tranh với bọn lính ngụy quân chặt phá rừng dương của bà con ở Chợ Được, huyện Thăng Bình. Cuộc đấu tranh trực diện đẫm máu trước súng đạn, bom xăng của kẻ thù hung hãn. Sau đó, ông bị bắt và trốn thoát được vào Sài Gòn  hoạt động, không ai còn biết tung tích của ông, bởi ông là Nguyễn Đức Dũng, còn Vũ Hạnh nhà báo, nhà văn thì quá quen thuộc trên mặt báo, nhất là các cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn của Vũ Hạnh được xuất bản, tái bản nhiều lần, thu hút lượng người đọc đáng kể, do nội dung phù hợp với thời cuộc và lòng người, mong muốn hòa bình, chống lại cường quyền, áp bức, bóc lột, sự tàn phá của chiến tranh, chia ly, mất mát. Những trang viết của ông là bảo vệ, đề cao cái đẹp, hồn cốt dân tộc, vạch trần tội ác, chia sẻ với nhân dân nỗi niềm u uất.

Về bút danh Vũ Hạnh - đó là tên của một người bạn học của ông, số là năm 1963, tôi được gặp ông Vũ Hạnh vừa ở nhà lao Côn Đảo ra và lên chiến khu, được vào Ban Tuyên huấn tỉnh Quảng Nam công tác. Vì đọc nhiều tác phẩm của Vũ Hạnh, tôi tưởng ông là nhà văn, nhà báo nổi tiếng, té ra Vũ Hạnh và Nguyễn Đức Dũng là bạn học với nhau cùng quê xã Bình Nguyên, huyện Thăng Bình, khi vào tù đổi tên cho nhau, thề sống chết hãy xứng đáng với sự tin yêu, cùng nhau chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, hẹn ngày toàn thắng gặp nhau. Nhưng không lâu, vì bị tù đày, sức khỏe suy sụp Vũ Hạnh qua đời.

Đến cái bút danh A. Pazzi nổi đình nổi đám, tác giả cuốn Người Việt cao quý. Số là năm 1965, khi Mỹ chuẩn bị đổ quân ồ ạt vào miền Nam, ở trên nhận định, sự kiện này sẽ làm tổn thương đến tinh thần dân tộc chúng ta, do đó khuyên Vũ Hạnh nên viết những gì đề cao ý chí để gián tiếp đánh Mỹ. Trong một tuần lễ Vũ Hạnh suy nghĩ và viết xong tập tản văn Người Việt cao quý, đề tên tác giả là A. Pazzi, người Ý, để dễ kiểm duyệt và mượn tên người nước ngoài này ca ngợi chúng ta được dễ nghe hơn. Vũ Hạnh gửi một chương ca ngợi Đôi mắt và nụ cười in thử trên nhật báo Đất Tổ để xem phản ứng người đọc ra sao, và tác động vượt khỏi sự chờ đợi. Người đọc vồ vập, bàn tán, thích thú vì người Việt được nước ngoài ca ngợi quá cỡ như thế. Thế là mấy tuần sau, sách in xong. Tác phẩm đáp ứng tâm lý người đọc, nên được tái bản nhiều lần. Ở trong nhà tù, sách cũng được tìm đọc. Dĩ nhiên, bấy giờ chẳng mấy ai biết Vũ Hạnh là tác giả.

Sau giải phóng, có lần Vũ Hạnh gặp học giả Trần Văn Giàu trên đường phố, ông bảo Vũ Hạnh “Cậu đá đò lái mình nhé”. Vũ Hạnh đáp: “Tôi có gì vô lễ không anh Sáu (TVG)?”. Thì mình có trích dẫn lời A. Pazzi trong một bài viết gửi ra báo Văn nghệ Trung ương. Ở ngoài đó cho biết A. Pazzi chính là cậu. Còn ông Trần Trọng Tân, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, khi ông Lê Duẫn ghé thành phố có nói với ông Tân: “Quyển Người Việt cao quý của tay Pazzi nào đó viết khá quá”, ông Tân trả lời: “Tay Pazzi ấy là cơ sở nội thành”, sau đó đề nghị Vũ Hạnh gửi tặng ông Lê Duẩn cuốn sách này. Khoảng năm 80, nhà thơ Viễn Phương đi họp ở Huế về, ghé thăm Hội Văn nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng, Chủ tịch Hội, nhà văn Phan Tứ, khi tiếp chuyện có hỏi: “Mình tìm hiểu A. Pazzi tác giả cuốn Người Việt cao quý đã lâu, kể cả khi đi họp quốc tế, có nhờ đồng chí Enzo Roscani, Ủy viên Trung ương Đảng tìm hộ, nhưng không ra”. Nhà thơ Viễn Phương cười lớn: “Hôm nay tôi đưa ông ấy đến gặp ông đây”. Nhà văn Phan Tứ nhìn Vũ Hạnh, mừng rỡ không nói nên lời.

Vũ Hạnh (Nguyễn Đức Dũng), sinh năm 1926, trong một gia đình Nho giáo, cháu ngoại Tiến sĩ Phan Quang, một trong Ngũ Phụng tề phi đất Quảng, tham gia Việt Minh trước Cách mạng tháng Tám, có chân trong Ủy ban khởi nghĩa 1945 tại huyện nhà khi mới 19 tuổi. Sau Hiệp định Genève, ông được bố trí ở lại hoạt động công khai, bị địch bắt, rồi ra tù, vào tù đến 5 lần. Có thời, 3 cha con ông cùng vào tù một lúc. Tuấn, con trai đầu lòng của ông bị nhốt ở Côn Đảo đến 20 năm, con gái Phương Thảo 5 năm. Ông từng làm chủ bút nhật báo Đất Tổ, chủ bút nguyện san Văn Bút của Hội Văn bút Việt Nam, Tổng thư ký báo Tin Văn ở Sài Gòn suốt 20 năm (1954 - 1975). Sau năm 1975, Vũ Hạnh là Tổng thư ký Hội Văn nghệ Sài Gòn - Gia Định, chủ biên các tạp chí Mỹ thuật thời nay, Cảo thơm, Văn hóa gia đình... là cộng tác viên thường xuyên của bán tuần san Công An thành phố Hồ Chí Minh, tuần báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh và có bài đăng trên nhiều tờ báo khác trong cả nước.

Vũ Hạnh thành thạo nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, tùy bút, bút ký, tản văn, phê bình lý luận, kịch... Trong một bài viết ngắn, tôi không thể đề cập sâu sắc và có cái nhìn bao quát về một sự nghiệp văn học quá đồ sộ của ông, mà chỉ điểm xuyết một vài chi tiết xung quanh các câu chuyện “hành hiệp” của ông đầy kịch tính, luôn thu hút người đọc. Những hoạt động văn học, báo chí của ông khó ghi lại trong vòng năm, bảy trang giấy, nhưng tôi có thể ghi lại nhận xét của lãnh đạo của Khu ủy về quá trình công tác của Vũ Hạnh: “Trên lĩnh vực đấu tranh văn hóa nội thành, đã tích cực thực hiện tất cả các chủ trương cách mạng đề ra trong thời chống Mỹ, và chỉ có mỗi khuyết điểm là đã làm trên mức yêu cầu của Đảng”. Trong Từ điển văn học bộ mới của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Việt Nam đã viết: “Trong dòng văn học yêu nước cách mạng phát triển trong vùng thành thị miền Nam (1954 - 1975), Vũ Hạnh là một trong những cây bút nổi tiếng, đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc Mỹ trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng...”.

Cũng quá đủ để chúng ta tin yêu Vũ Hạnh, cũng quá đủ để Vũ Hạnh vui sống và tự hào, nếu ông còn tại thế, vì ông là nhà văn lấy văn để thể hiện lòng yêu nước vô bờ, từ đó hình thành một nhân cách văn học lớn trong ông. Những tác phẩm của ông đã được bạn đọc yêu mến hơn nửa thế kỷ qua, và nay vẫn còn chỗ đứng trong lòng mọi người. Điều đó cũng chứng minh rằng - văn ông cùng đồng hành với dân tộc!.

H.H.V

Bài viết khác cùng số

Những ngày cuối nămNhững đám mây thổ cẩmCôn Đảo - Phố Cây bàng, biển và người nhạc sĩ thiên tàiNăm cũMùa xuân trên tầng ký ứcTập hợp và phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Đà Nẵng - Những vấn đề đang đặt raCó một Đà Nẵng hào hùng 55 xuân trướcMùa xuân khơi dậy khát vọng phát triểnMột thời vui nhộn cùng chú mèo máy đến từ tương laiMỹ nhân ám ảnhMùa chim ri làm tổĐừng nói lời yêu chiều ba mươi TếtVàng Mai rực rỡThanh Mai Tầm XuânTản mạn bốn mùa nước MỹChuyện vui kể vào dịp TếtTôi yêu Đà NẵngEm về tắm biển Tiên SaChạm xuânĐó là cách mùa xuân chạm vào chúng taPhía xuân xaPhía xuân quê nhàMùi TếtĐã chínDự cảm GiêngTết nướcChuyển mùaNgẫu khúc cầu vàngLy cà phê quán nhỏChùm Haiku mùaCà phê chiềuDắt em về miền biểnMưa trên tượng người Việt cổThèm một vòng tayVô thườngKhúc tiễn ngày xuânTết quêTháng GiêngCuối TếtTếtNgày rất dàiPhiên chợ tình toàn đá núiGiả sửĐợi xuânĐi để trở vềGiao mùaThơ Nguyễn Nho Thùy DươngBến gióVó ngựa trót hoang emNghĩ vẩn vơ giữa con sóng thời gianChiều sông HànHồi ức Mã ChâuChào nhé mùa ĐôngNgày nắng vỡTruyền thuyết hoa Dã QuỳNgày giỗ nộiXuân muộnĐoản khúc cho một ngàyThầm thì bên suốiVaTự sựCon mèo trong văn hóa dân gian Việt NamNgày xuân đọc lại thơ Tết của Phan Bội ChâuLàng, Đình làng và Hội làng ngày xuânHình ảnh con mèo trong thơ thiếu nhiNhớ “Mùa xuân đầu tiên”Ngày xuân nhớ cụ Nguyễn Văn XuânLưu Quang Vũ và một thế hệ đồng hànhVũ Hạnh một nhân cách văn học khó quênBiến thể - Khúc bi ca nhân thếVề chùm thơ hai bài thơ Xuân Áng tức cảnh của Phan KhôiTiếng thơ Nguyễn Nho NhượnĐà Nẵng - Thành phố niềm tinHọa sĩ Nguyễn Trọng Dũng với triển lãm tranh lụaChiều Đà NẵngCon mèoBốn mùa nhớ BácTuổi mười lăm