Nhớ Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh và Trăm năm thơ đất Quảng
Chân dung Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh
Ngẫu nhiên làm sao trong nhiều giáo sư tên tuổi được tôn vinh là những cây cao bóng cả trong ngành nghiên cứu và lý luận phê bình văn học của cả nước, thì riêng vùng đất Quảng đã từng sáng danh bao vị, lại toàn là quê hương Điện Bàn. Đấy là Giáo sư Lê Đình Kỵ (1923 - 2009); Giáo sư Lê Trí Viễn (1919 - 2012); Giáo sư Hoàng Phê (1919 - 2005); và Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh (1931 - 2023). Đối với chúng tôi, một lần trong đời được gặp gỡ các tiền bối ấy đã là hạnh ngộ lắm rồi. Ấy vậy mà tôi may mắn có một quãng thời gian được làm việc chung với Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh.
Có những hội ngộ trong đời, cứ tưởng rồi sẽ lướt qua giữa dòng đời tấp nập, kiểu như Bùi Giáng thi sĩ - Người qua tôi cũng đi qua/ Người dừng tôi cũng qua loa tạm dừng. Không ngờ với tôi, cuộc hội ngộ cũng chỉ vì công việc chóng vánh thôi mà thành ra nhớ đời nhớ thuở. Nói như thi sĩ Lưu Trọng Lư trong hồi ký Nửa đêm sực tỉnh của ông, rằng con người ta có khi bước lên một chuyến tàu; thì bước lên bước xuống lẽ bình thường thôi, ấy vậy mà hóa ra duyên nhau nhớ suốt đời. Vâng, tôi cũng có một chuyến tàu như thế - “chuyến tàu” mang tên “Trăm năm thơ Đất Quảng”!
Nếu bạn hỏi tôi trong đời sống văn học nghệ thuật Đất Quảng, cái gì làm tôi nhớ nhất trong mấy chục năm qua, có thể kể khởi từ cái Tết 1997, cái năm mà Đà Nẵng và Quảng Nam được chia tách ra thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương.
Chắc chắn là tôi sẽ nhớ ngay một việc không dễ để lặp lại lần thứ hai nào cả, đấy là biên soạn công trình Trăm năm thơ Đất Quảng. Một công trình như một chuyến tàu chất chứa khẳm nặng thời gian, mà để vận hành nó là cả một ban bệ ê-kíp (Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh; Ý Nhi; Nguyễn Đông Nhựt; Nguyễn Nhã Tiên; Phùng Tấn Đông) thực hiện hẳn hoi. Lại còn lãnh đạo tỉnh Quảng Nam, mà trực tiếp là Trưởng Ban Tuyên giáo tỉnh luôn khích lệ, theo dõi, và tổ chức những cuộc hội thảo khoa học để công trình đạt được chất lượng đúng như tiêu chí đề ra.
Nhưng tôi muốn nói tới Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh - người đứng tên đồng chủ biên công trình. Là bởi với tôi, ông không chỉ là nhà khoa học dày dạn kinh nghiệm, mà gần gũi làm việc hoặc rong chơi cùng với ông tôi còn phát hiện cái phẩm chất cực kỳ nghệ sĩ của ông. Và đấy mới là điều mới lạ. Dường như chưa thấy ai viết về ông có nói đến điều này.
Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh sinh ra ở vùng quê Điện Thọ - Điện Bàn. Ông sớm ra Bắc học từ trước năm Hiệp định Genève được ký kết. Đến năm 1955 ông là du học sinh theo học tại Đại học Lomonosov (Moskva - Nga). Sau khi tốt nghiệp đại học ông tiếp tục làm nghiên cứu sinh tại đây.
Ở tuổi 30 ông đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ (thời đó Liên Xô cũ còn gọi là phó tiến sĩ). Năm 1963, ông về nước giảng dạy khoa văn, chủ nhiệm bộ môn Lý luận văn học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau năm 1975, Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh được điều làm Trưởng Ban phụ trách Viện Đại học Huế, rồi Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Huế. Về sau ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ giáo dục, rồi làm Phó Ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương cho đến ngày Giáo sư vào ở hẳn tại Thành phố Hồ Chí Minh làm chuyên gia Cao cấp cho Viện khoa học xã hội.
Tóm lược ít dòng tiểu sử của Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, cũng tức là để nói tới một cuộc đời dằng dặc xa quê của ông. May mà còn có những tháng ngày ông ngồi lại cùng chúng tôi biên soạn chung một công trình để lưu lại như một tặng vật cho quê nhà.
Thực ra vào buổi đầu xây dựng đề cương và thành lập nhóm biên soạn Trăm năm thơ Đất Quảng, chúng tôi chưa dám mời giáo sư bởi vừa e ông cây cao bóng cả, lại cũng vừa ngại giáo sư tuổi tác cao lại ở xa xôi. Thế nhưng đến lúc gặp ông rồi, cái chất nghệ sĩ của ông đã xóa nhòa mọi khoảng cách. Một trong những kỷ niệm nhớ đời nhớ thuở vào những ngày đầu làm việc với Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, ấy là việc ông trách tôi: “Nghèo chi đến nỗi không mắc được cái điện thoại bàn để tiện liên lạc làm việc với nhau”. Đúng là vào năm tháng ấy, ở đâu không biết, chứ anh em văn nghệ chúng tôi không phải ai cũng dễ có cái điện thoại bàn; di động lại càng không, huống là khó khăn như tôi. Vì thế khi cần trao đổi công việc nào đó với tôi, giáo sư phải nhờ người nọ kẻ kia chuyển lời, hoặc có khi trao đổi bằng thư gởi qua bưu điện.
Riết rồi giáo sư không chịu nổi, ông viết thư gởi lãnh đạo yêu cầu mắc cho Nguyễn Nhã Tiên cái điện thoại bàn; nếu không, ông rút lui công việc. Là giáo sư giận dỗi mà nói lên như vậy thôi; chứ nỗi lòng ông tôi hiểu. Vào buổi hoàng hôn một đời người ông cũng khát khao ửng lên sắc ráng giữa trời quê như một niềm hạnh phúc sau hơn nửa thế kỷ biền biệt xa cách. Và, với tôi cũng nhờ cái sự giận dỗi quý hóa của ông mà chỉ vài ngày sau có được cái điện thoại bàn đầu tiên, để mà... hiện đại “a lô” với mọi người.
Nhưng rong chơi cùng giáo sư mới là những kỷ niệm khó quên. Thực lòng mà nói, cứ ngỡ ông nhiều năm tháng ở chốn quan trường, dẫu cho ông có hòa mình giữa đời thường chăng nữa thì cũng khó mà lang thang kiểu như chúng tôi được. Vậy mà như tôi đã nói cái khí chất nghệ sĩ của ông, thêm nữa, dường như được sống giữa lòng quê xứ, niềm hạnh phúc thành thứ men say xóa nhòa trong ông mọi khoảng cách.
Ở vào địa vị giáo sư như ông, những ngày ở quê không chỉ là công việc theo hợp đồng; mà ông còn là khách đặc biệt nữa là đằng khác. Thâm tình và cao quý hơn nữa, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh từng là người thầy của nhiều lớp sinh viên mà vào thời điểm đó các anh đương chức làm lãnh đạo một số cơ quan đầu tỉnh. Vậy nên chuyện ăn ở hay đi lại công tác, tỉnh Quảng Nam có lo cho giáo sư cũng là điều hợp lẽ.
Vậy mà, ở Tam Kỳ một đôi ngày thì thôi; còn về Đà Nẵng thì ông thường ngẫu hứng đòi đi lang thang cùng tôi. Khổ một nỗi, phương tiện đi lại của tôi chỉ có mỗi chiếc xe máy cũ kỹ cà tàng, chở ông đi lỡ nửa chừng xe hỏng hóc bất ngờ nên tôi rất ngại. Nhưng giáo sư thì phớt lờ, xuề xòa nói cười như không. “- Xe gì mà chả được, đừng quan trọng vật chất quá rồi nô lệ vào nó”. Chắc là ông nói vui thôi, nhưng tôi còn hiểu ý ông là hãy để mọi niềm vui tự do cất cánh. Đừng tự nhốt mình trong những hệ lụy xa hoa vật chất.
Có một lần, đã sắp chiều tối rồi, trong lúc tôi định mời giáo sư đi ăn cơm bụi như mọi lần, bỗng ngẫu hứng thế nào ông cù rủ tôi dạo biển Mỹ Khê. Năm tháng mới vừa chia tách tỉnh ấy, vùng biển Đà Nẵng còn hoang sơ chứ chưa phố xá hiện đại như bây giờ. Ngồi dưới hàng phi lao tôi và ông chỉ uống vài chai bia, và chuyện trò đủ thứ trên đời. Chả rõ khi ngồi trên cát biển ông nghe được “thông tin” gì từ những chú còng gió, từ tiếng vi vu bất tận của rừng phi lao cám dỗ, bỗng dưng tôi thấy giáo sư trẻ thơ ra, ông cởi hết áo quần ngoài rồi nằm lăn trên cát biển nô đùa như bắt gặp ngày xưa của mình. Phố đã lên đèn rồi mà xem ra giáo sư còn mê mải lang thang nhặt vỏ ốc. Đến độ tôi phải giục nhiều lần, chừng như ông mới sực tỉnh ra “- Ừ, về thì về”!
Niềm cảm hứng của giáo sư trong việc biên soạn Trăm năm thơ Đất Quảng thì cũng là dịp cho ông gặp gỡ lại những ngày xưa vô tận. Không chỉ là những bãi chợ, bến đò, dòng sông. Không chỉ là tuổi thơ hồn nhiên lấm lem đất cát... mà còn là một hành trình thơ vật vã gặp các tiền bối xa xưa tự thế kỷ 18;19 như: Lam Anh; Phạm Phú Thứ; Hoàng Diệu; Phan Châu Trinh; Trần Quí Cáp... Hay là cụ thể hơn, ông quay về cái bến đò Thu Bồn gặp thi sĩ “Trời một phương” như Bùi Giáng mà đắm đuối một tình yêu: Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn/ Hết tâm hồn và hết cả da xương.
Bây giờ thì quả giáo sư đã về đến cái đích “hết tâm hồn và tất cả da xương”. Điều này thì suốt những ngày làm việc, kể cả rong chơi cùng ông tôi chưa nghe giáo sư nói bao giờ. Nhưng cái cách giáo sư bày tỏ niềm hoài vọng của mình trong cuộc vuông tròn trăm năm cũng chính là công trình Trăm năm thơ Đất Quảng. Nó có thể thừa hay thiếu, hay chưa tròn trịa, riêng với tôi bấy nhiêu đó, giờ đây cho dù giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã thuộc về thế giới những người muôn năm cũ, nhưng còn tôi, cầm cuốn sách Trăm năm thơ Đất Quảng nặng trĩu hơn nghìn trang in trong tay tôi ngộ ra rằng: “Tưởng người nên lại thấy người về đây”.
N.N.T