Về miền đất anh hùng
Tượng đài Dũng sĩ Điện Ngọc.
Tôi đặt chân đến quê hương của bảy Dũng sĩ Điện Ngọc vào một buổi sáng đầu thu năm 2025. Từ trên ô tô tôi đã cảm nhận được nhịp sống đang đà đi tới, sự nhộn nhịp, tươi mới, hối hả… hiện rõ trên từng gương mặt, giọng nói, nụ cười của người dân, từ bác thợ, cô tiểu thương, đến các cán bộ nơi đây, mảnh đất mang cái tên ấn tượng “Đất Quảng anh hùng”. Giữa tiết thu trong veo, tôi nhìn thấy khắp nơi vẫn còn đậm dấu ấn tri ân quá khứ. Trên những nẻo đường, những băng-rôn nổi bật sắc đỏ dòng chữ màu vàng “Đời đời ghi nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ”. Quanh Tượng đài Tổ quốc ghi công ở các nghĩa trang liệt sĩ, những vòng hoa rũ mình trong cái nắng gay gắt, nhưng vẫn còn đó sự tươi tắn và lòng thành kính.
Theo tiến trình chung, phường Điện Bàn Đông đã được thành lập và đi vào hoạt động hơn một tháng. Song khi tôi đến, không khó khăn lắm để gặp các lãnh đạo phường. Biết tôi vượt gần 350 cây số, từ phía bắc Quảng Trị vào đây, chỉ với một mục đích, tìm hiểu, nghiên cứu tư liệu cho bút ký về bảy Dũng sĩ Điện Ngọc, các anh chị rất nhiệt tình hướng dẫn và sẵn sàng đáp ứng.
Điều tôi cảm nhận đầu tiên, không khí làm việc ở cơ quan phường tuy rất bận rộn nhưng hết sức cởi mở, thân ái. Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Nguyễn Thanh Vỹ không ngồi sau bảng tên ở phòng riêng, mà có mặt tại phòng làm việc của ủy ban. Anh vừa trò chuyện, vừa xem và ký các giấy tờ cần thiết cho bà con. Nghe tôi trình bày, anh cho biết: “Tỉnh Quảng Nam nay đã sáp nhập cùng thành phố Đà Nẵng. Phường Điện Ngọc đã được sáp nhập cùng các phường Điện Nam Đông, Điện Nam Trung, Điện Nam Bắc và xã Điện Dương, để thành lập phường Điện Bàn Đông. Hiện phường có diện tích tự nhiên hơn 61km2, dân số gần 72.300 người. Đảng bộ phường cũng vừa tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ, đưa thu nhập bình quân đạt 90 triệu đồng/người/năm”. Chính điều này đã làm tôi tâm đắc và ngưỡng mộ, bởi ngay nhiệm kỳ đầu, Đảng bộ đã đề ra một chỉ tiêu, mà không phải địa phương nào, hoặc bất cứ lúc nào cũng có thể dễ dàng đạt được. Cũng theo Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường: “Để tháo gỡ khó khăn của giai đoạn đầu, phường đang quyết liệt thực hiện chuyển đổi số, phấn đấu đến cuối năm 2025 có mặt trong top 20 xã, phường dẫn đầu thành phố. Tạo tiền đề xây dựng phường Điện Bàn Đông trở thành đô thị văn minh, hiện đại, là một trong những khu vực phát triển mới và năng động của thành phố Đà Nẵng”.
Nhìn tổng thể, Điện Bàn Đông có khá nhiều lợi thế và tiềm năng: Phía Bắc giáp phường Ngũ Hành Sơn; phía Nam giáp phường Điện Bàn và Hội An Tây; phía Đông giáp biển Đông; phía Tây giáp phường An Thắng và Điện Bàn Bắc. Từ vị trí ấy, Điện Bàn Đông như vừa ôm lấy bờ biển, vừa ôm trục giao thông Đà Nẵng - Hội An, là cơ sở tạo ra nhiều thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển trong tương lai.
* *
*
Lúc còn học trung học, tôi từng đọc tập truyện ký Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc của Nguyễn Trung Thành. Trải qua nhiều tháng năm, lăn lộn cùng công tác, chiến đấu và đời sống, tôi không còn nhớ cuốn sách đã lưu lạc nơi đâu. Tuy nhiên, câu chuyện về bảy Dũng sĩ Điện Ngọc thì vẫn cồn cào trong tôi. Đã bao lần tôi đăng thông tin, tìm mua tập sách đó nhưng chưa được đáp ứng. Sau bao trăn trở, tôi quyết định phải đến tận nơi bảy người anh hùng sinh ra, lớn lên, chiến đấu và lập công... Về đây, tôi cảm nhận như đi giữa sự kết nối hài hòa, truyền thống và hiện đại; dù cuộc sống đang diễn ra trong không gian thanh bình. Nhưng ngay giữa sự yên bình và nhịp sống sôi động của đô thị, có sự giao thoa giữa những nét đặc trưng về lịch sử đấu tranh cách mạng của các bậc tiền bối, nhắc nhở con cháu hôm nay, vừa trân trọng, tự hào, vừa biết bày tỏ lòng thành kính, tri ân những người đã hiến dâng cả máu xương và cuộc đời cho Tổ quốc, để đất nước có ngày độc lập, tự do.
Một điều may mắn, tưởng như có sự linh nghiệm nào phụ trợ, đến mức chính Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường cũng lấy làm thích thú: Người phụ trách Phòng Văn hóa xã hội phường là chị Trần Thị Thanh Vân, con dâu của Đội trưởng Đội biệt động Lê Tấn Viễn (tức Bảy Hiền) - một trong bảy Dũng sĩ Điện Ngọc. Sau khi được giới thiệu về các gia đình, tôi đã có dịp tiếp cận những người là vợ, là anh em, con cháu của các Dũng sĩ.
Về đây, tôi thực sự vỡ òa trong xúc động: Vì sao trong khói lửa chiến tranh, dưới sự kìm kẹp của địch mà người dân luôn sẵn sàng ủng hộ cách mạng, che giấu cán bộ, tiếp tế cho bộ đội, du kích?… Tất cả đều xuất phát từ khao khát được giải phóng, xuất phát từ lòng căm thù giặc. Minh chứng vấn đề này, cựu chiến binh, thương binh Đặng Văn Lái, 77 tuổi, người có con gái Đặng Thị Kim Anh, chuyên viên Văn phòng Đảng ủy phường Điện Bàn Đông, nhớ lại bằng chất giọng đầy phẫn uất: “Một chế độ hà khắc như vậy, chúng lấy cớ “diệt Cộng”, “tố Cộng” nhưng chúng không tha cả cụ già, trẻ em, phụ nữ... Chúng trói, chúng đốt, chúng giết… làng xóm đau thương tan nát. Có em nhỏ bị chúng đốt kêu lên, má ơi cứu con nhưng má em còn đâu nữa… Má em đã bị chúng bắn ngã gục trên đồng, chiếc nón xơ xác bay xuống dòng kinh, trôi đi như con thuyền không lái… Rồi các cơ sở không may bị lộ, bị bắt, bị kìm kẹp tra tấn, bị giết, bêu đầu, tàn ác quá...
Chế độ nớ mà không đạp đổ cho mau thì chịu chi nổi!”. Câu chuyện ông Lái kể làm tôi liên hệ tới những câu thơ xé ruột của nhà thơ Tố Hữu trong bài “Lá thư Bến Tre”: Có những ông già nó khảo tra/ Chẳng khai nó chém giữa sân nhà/ Có chị gần sinh không chịu nhục/ Lấy vồ nó đập vọt thai ra…
Tôi đứng lặng trước Tượng đài Dũng sĩ Điện Ngọc trong cái nắng đầu thu reo réo phả xuống vạn vật luồng khí nóng hầm hập. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng, ở tuổi ngoài thất thập, mình lại có thể thực hiện được một cuộc hành trình, tìm về cái nơi mà hàng mấy chục năm trời chưa nguôi trong tâm tưởng. Hiện hữu trước mắt tôi, một khuôn viên khá rộng, tuy có phần xuống cấp do sự bào mòn của thời gian, nắng mưa khắc nghiệt, nhưng vẫn giữ được nét trang nghiêm, sạch đẹp. Ngẩng nhìn lên cao, giữa nền trời xanh ngăn ngắt, cụm tượng đặc tả trận đánh của bảy Dũng sĩ Điện Ngọc đã tiếp thêm cho tôi sinh lực và cảm xúc. Những nắm tay kiêu hãnh vung lên giữa trời xanh, như gửi gắm vào vũ trụ bao la một lời thề “quyết tử để bảo vệ quê hương, đất nước” của con người đất Quảng. Từ lâu, Tượng đài Dũng sĩ Điện Ngọc là nơi diễn ra các hoạt động tưởng niệm, tri ân; nơi vui chơi cho trẻ em, thanh thiếu niên, học sinh… Không gian tượng đài còn phù hợp cho du khách viếng thăm, tìm hiểu lịch sử, truyền thống đấu tranh cách mạng của mảnh đất, con người Quảng Nam, Đà Nẵng.
Tại Khu di tích Giếng Nhà Nhì, thôn Ngân Câu, xã Điện Ngọc (cũ), nay là phường Điện Bàn Đông, tôi đốt nén hương, kính cẩn dâng lên với tấm lòng thành kính, làn khói ngan ngát theo gió lan khắp chốn tâm linh. Qua tìm hiểu, tên gọi Giếng Nhà Nhì là do giếng được đào gần nhà bà Nhì. Theo cách gọi miền Bắc, đó là một cái ao nhỏ; miền Nam gọi là giếng. Giếng Nhà Nhì thuộc loại giếng cạn, do người dân đào lấy nước tưới khoai lang và thuốc lá. Tại đây, ngày 26/4/1962 đã diễn ra trận đánh, với tinh thần quả cảm, ý chí chiến đấu kiên cường của bảy chiến sĩ đặc công trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tháng 4 năm 1962, trên đà thắng lợi của phong trào đồng khởi, Ban An ninh Điện Bàn đề xuất tỉnh Quảng Nam cử một đội đặc công gồm 7 đồng chí về xã Điện Ngọc. Đội do Lê Tấn Viễn (tức Bảy Hiền) làm Đội trưởng; Võ Như Hưng (tức Võ Trước) làm Đội phó, cùng các chiến sĩ: Nguyễn Thật, Nguyễn Rìu (tức Nguyễn Tám), Nguyễn Sỹ, Trần Thọ và Trần Đại Nghĩa. Đội đặc công này có nhiệm vụ phối hợp Đội công tác của huyện tổ chức các trận đánh thu hút địch, tạo điều kiện cho các xã có phong trào tốt nổi dậy phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ. Đêm 25/4/1962, trong quá trình di chuyển, Đội bị địch phát hiện. Sáng sớm ngày 26/4, chúng đổ quân vây ép. Đội quyết định rời cơ sở, triển khai chiến đấu với quân địch đông gấp hàng trăm lần và được “trang bị tận răng”. Trận đánh diễn ra tại nhiều nơi ở Điện Nam và Điện Ngọc, chiều ngày 26 tháng 4, Đội cơ động về bám trụ ở giếng cạn nhà bà Nhì. Tại đây, Đội đã chiến đấu hơn 4 giờ, hết đạn, các anh nhặt lựu đạn địch đánh lại địch, đẩy lùi các đợt tấn công của chúng, tiêu diệt hơn 60 tên. Đêm đó, có 4 chiến sĩ đặc công hy sinh, còn lại 3 đồng chí là Lê Tấn Viễn, Võ Như Hưng và Nguyễn Rìu, dù bị thương nặng vẫn kiên cường chống trả đến khi địch rút lui hoàn toàn.
Sau chiến công này, các chiến sĩ Đội đặc công được Mặt trận Dân tộc Giải phóng tặng danh hiệu “Dũng sĩ Điện Ngọc” và Huân chương Giải phóng hạng Nhất. Giếng Nhà Nhì được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đội trưởng Lê Tấn Viễn và Đội phó Võ Như Hưng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân…
* *
*
Tôi bồi hồi quan sát quanh miệng Giếng Nhà Nhì, giữa trưa hè nắng rát mặt người nhưng lòng giếng vẫn còn khá nhiều nước. Quanh đó là những cây cổ thụ già mang trên thân bao vết đạn cắt cứa sần sùi. Tất cả muốn nói lên ý chí bất tử của những con người xả thân trong chiến trận, quanh lòng giếng này...
Khi biết tôi đến để tìm hiểu và xây dựng tác phẩm về bảy Dũng sĩ Điện Ngọc và thân nhân của họ, nhằm ghi nhớ công ơn của các anh hùng liệt sĩ, thể hiện sự quan tâm, tri ân đối với những người đã cống hiến, hy sinh vì quê hương và độc lập tự do của Tổ quốc, một bạn trẻ là con gái quê hương Điện Ngọc vui vẻ nói: “Trước hết con cảm ơn bác đã quan tâm tới Quảng Nam, mà đặc biệt là phường Điện Ngọc. Vì Điện Ngọc là quê hương của bảy dũng sĩ anh hùng. Chúng con là lớp hậu sanh, sinh sau đẻ muộn nhưng con rất vinh dự và tự hào khi được sinh ra trên mảnh đất quê hương đầy truyền thống. Thứ hai là có những dũng sĩ đã cống hiến hết mình để tụi con có được độc lập tự do của ngày hôm nay…”.
Bà Đinh Thị Thục, 80 tuổi, vợ Đội trưởng Lê Tấn Viễn xúc động kể lại: Ông bà có với nhau 3 người con. Lê Viết Trung là con trai cả, hiện công tác tại Bộ Tư lệnh Quân khu 5; vợ anh là Trần Thị Thanh Vân, Trưởng Phòng Văn hóa xã hội phường. Con trai thứ là Lê Tự Thành, giảng viên Trường Đại học Khoa học tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh. Con gái út là Lê Thị Diệu, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Phan Ngọc Nhân, phường Điện Bàn Đông. Các thân nhân khác của bảy Dũng sĩ Điện Ngọc nói chung đều phát triển tùy thuộc vào tình hình, đặc điểm của địa phương và điều kiện của mỗi gia đình. Song tất cả đều phát huy tốt truyền thống cách mạng của quê hương và gia đình, coi đó là thành quả phải đổi bằng xương máu chính người thân của họ, là vinh dự và tự hào để họ tiếp bước cha anh vun đắp quê hương và phụng sự Tổ quốc.
Trên đường trở lại Quảng Trị, tôi mang theo không biết bao nguồn cảm xúc về quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng, mảnh đất “Trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”. Đó không đơn thuần là một slogan hành động, mà là danh hiệu cao quý do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trao tặng. Tôi thầm cảm ơn nhà văn Nguyễn Trung Thành, bút ký chiến trường của ông đã neo vào tâm hồn tôi dấu ấn đầu tiên, từ sau ngày tập sách xuất bản, năm 1969, để hơn 55 năm sau, tôi đã tìm về nơi câu chuyện xảy ra... Những trang văn ông viết ra không chỉ ghi lại chiến công, mà còn thắp lên ngọn lửa thiêng liêng về lòng quả cảm, về sức mạnh tinh thần của con người trong khói lửa chiến tranh. Bao năm qua, tôi vẫn giữ trong ký ức âm vang của những câu chữ rực lửa ấy, để hôm nay, khi đặt chân lên mảnh đất Điện Ngọc, lòng bỗng rung lên như gặp lại một phần ký ức đã sống trong mình suốt hơn nửa đời người...
N.T.N