Hạc vàng bay mãi...

02.10.2025
Nguyễn Tấn Ái

Hạc vàng bay mãi...

Vĩnh biệt nhà thơ Nguyễn Mậu Hùng Kiệt

 

Sau một thời gian lâm trọng bệnh, lúc 6 giờ 3 phút ngày 21 tháng 8 năm 2025, nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Mậu Hùng Kiệt - hội viên Hội Nhà văn thành phố Đà Nẵng, đã trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 62 tuổi.

Ban Chấp hành và hội viên Hội Nhà văn thành phố Đà Nẵng xin gửi đến gia đình nhà thơ Nguyễn Mậu Hùng Kiệt lời chia buồn sâu sắc!

Tạp chí Đất Quảng giới thiệu bài viết dưới đây, thay cho lời vĩnh biệt người bạn văn chương, một cộng tác viên gắn bó lâu năm cùng Tạp chí!...

Đ.Q

 

                     Hạc vàng bay mãi...

 

Nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Mậu Hùng Kiệt sinh năm 1964, quê thôn  Phú  Cốc,  xã  Quế  Thọ, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam (cũ); nay là thôn Phú Cốc, xã Việt An, thành phố Đà Nẵng. Tôi muốn gọi lại tên làng xã ngày xưa một lần nữa cùng anh, nơi có cây bàng Phú Cốc, có con sông Trầu, có đồi sim quê mẹ dỗ anh ngày tuổi lớn. Phú Cốc cũng là nơi có dòng họ nổi tiếng chữ nghĩa của quê, tộc Nguyễn Mậu, dòng họ có tên cụ Nguyễn Mậu Hoán đã từng ghi danh vào lịch sử văn hóa Quảng Nam.

Gắn bó với anh Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, đã lâu, tôi nhận ra trong anh hài hòa một tư cách nhà văn - nhà giáo. Vâng, không chỉ “song hành”, mà là sự “hài hòa”. Thầy giáo Nguyễn Mậu Hùng Kiệt là một người thầy tận tụy, mẫu mực, giàu ưu tư và tâm huyết với nghề. Suốt một đời dạy học, bao ưu tư cuộc đời, con người đã hóa thành những áng văn chương, những bài giảng mà bao thế hệ học sinh sẽ còn nhớ mãi. Thầy Kiệt giảng văn mê say, thầy Kiệt thị phạm cùng đồng nghiệp. Thầy Kiệt là người thầy trọng đạo, luôn hết lòng giữ đạo làm thầy!...

Trong đa dạng những cá tính văn chương của Chi hội Văn học Quảng Nam trước đây và nay là của Hội Nhà văn thành phố Đà Nẵng, anh Kiệt giữ một phong thái, một cốt cách riêng. Anh trí thức, quảng bác mà điềm đạm, lịch thiệp. Ít khi anh trực tiếp can dự vào các cuộc luận đàm văn chương bên lề. Ngược lại, trong các cuộc tọa đàm, hội thảo, phê bình văn học, anh luôn góp tiếng nói của mình. Phát biểu của anh trong những cuộc ấy luôn có một hệ lý luận chắc chắn, một trải nghiệm của người viết, một tâm tình chia sẻ. Trong những cuộc giao lưu hay đi thực tế sáng tác, anh luôn ưu tiên thăm hỏi động viên bạn văn, nhất là thế hệ kế tiếp. Dường như anh ít chuyên chú vào lập ngôn mà cơ bản, môi trường văn nghệ là nơi để anh chia sẻ, tâm tình, đồng cảm.

Ít quan tâm đến tư thế lập ngôn, ấy vậy mà Nguyễn Mậu Hùng Kiệt là người viết đa dạng, xông xáo, trải mình ở nhiều thể loại: thơ, tản văn, phê bình văn học.

Thơ anh là tiếng thở đằm sâu, hơi thơ dịu dàng, khí thơ trầm ổn, đủ để yêu mến và bất chợt lóe lên một tia ưu tư như thể là không thể không viết. Đó là ký ức gia đình: Nhà tôi vắng đêm thừa tiếng thở/ cha trở mình vẹo khúc sông sâu/ mẹ thao thức. Bờ sông mãi gió/ tôi cạn đêm chưa hiểu lẽ đời (Về lại dòng sông tuổi nhỏ). Là trăn trở phận nghề: Sáng nay có người trò cũ/ gặp thầy/ Quên mất: Dạ, thưa (Dạ thưa). Là trăn trở phận thơ: Tôi, một thằng tiếc của/ nhặt những câu thơ rơi trên cánh đồng chữ nghĩa/ Như cậu bé hai mươi năm về trước/ mót những hạt thóc rơi trong mùa gặt quê nhà (Nhặt những câu thơ rơi)...

Trong thơ Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, chủ thể trữ tình luôn được đặt ở vị trí khiêm tốn nhất, như một kiểu vén áo né mình không muốn chiếm dụng xung quanh. Ấy là người thơ biết đặt đời cao hơn thơ, là cái tôi nhà giáo điều tiết cái tôi nghệ sĩ. Nếu phải chọn một nét, chỉ tô đậm một nét để phác thảo gương mặt thơ Nguyễn Mậu Hùng Kiệt thì ấy là anh, cái người thơ khiêm tốn, nhẫn nại, luôn tự nhận mình không là một tài năng nên cứ day dứt một cái tôi chữ nghĩa nhiều trăn trở, vừa muốn giữ mình lại như vừa muốn thoát khỏi mình...

Tản văn là một phương diện khác, tuy anh Kiệt ít chuyên chú, chỉ giữ cho riêng mình, mà lại thành công.

Tản văn Nguyễn Mậu Hùng Kiệt giàu chất thơ, giàu rung cảm và thật tinh tế. Nơi ấy nhú lên mấy đọt hoa trên cỏ, nơi ấy một dòng suối thì thầm, nơi một thời nhà giáo nhà thơ miệt mài đi về với trường, với lớp, với đồng nghiệp qua bao miền quê xa … Tập tản văn mới đây của anh, Về thương quê kiểng, là một bận bịu níu chân người. Có thể nói tản văn với anh là thơ của văn xuôi.

Nguyễn Mậu Hùng Kiệt cũng là cây bút viết phê bình lâu năm và bền bỉ. Từ Thời gian - chiếc lá xanh xuất bản năm 2000, đến nay anh đã có ba tập phê bình đầy đặn. Phê bình của anh giàu đồng cảm văn chương, anh thường đặt mình trong tâm thế người sáng tác để sẻ chia, một kiểu đem hồn ta để hiểu hồn người. Trong đó có những đồng cảm trân trọng và giàu năng lượng vẫy gọi tri âm như khi anh viết về các bạn văn xứ Quảng và đặc biệt là về các tài năng  văn chương như Văn Cao, Khương Hữu Dụng, Lưu Quang Vũ… (tập phê bình Khoảng lặng).

Đọc phê bình của Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, người đọc nhận ra nơi anh có sự cần cù của con ong và chất ngọt của mật, hương thơm của nhụy hoa. Không quá cao xa trong khai phá những miền đất mới, anh mải miết đi về trên những nẻo quen mà tinh tế dừng lại, ngẫm nghĩ, thưởng thức những cái đẹp quen mà lạ, là kiểu tiếp nhận đồng sáng tạo trong dè dặt, cẩn trọng.

 

Dường như ở Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, con người nhà giáo - nghệ sĩ luôn hòa quyện. Con người nhà giáo nhắc con người nghệ sĩ trong anh chừng mực, và con người nghệ sĩ hỗ tương để nơi anh nghề văn nghiệp giáo thăng hoa. Và chuỗi xoắn kép nhà giáo - nhà thơ đã theo anh cho đến cuối chặng đời.

Với Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, không chỉ là sống để viết mà là viết - để - sống. Trong nét nghĩa ấy, anh đã nghệ sĩ đến giây phút cuối cùng: 6 giờ 3 phút ngày 21 tháng 8 năm 2025.

 Nguyễn Mậu Hùng Kiệt có một bài thơ, đã từ rất lâu, buồn, da diết, đằm thắm: Quê mẹ có nghèo đâu/ có cả một đồi sim/ mùa sim chín trái tròn như tuổi lớn/ tôi dỗ lòng buổi biết nhớ người dưng/ (…)/ Rồi một ngày/ tôi bỏ lại đằng sau/ đồi sim chín/ giếng thơi/ nỗi buồn hồn quê kiểng…/ Và cô gái nghèo chực khóc buổi tôi đi (Đi tìm câu ca xưa).

Bây giờ thì thầy giáo, người anh, người bạn văn chương Nguyễn Mậu Hùng Kiệt đã thật sự “bỏ lại đằng sau” mọi thứ. Anh rời đi. Không, anh trở về lại khu vườn xưa, Phú Cốc Tây, với đồi sim và bạt ngàn mây trắng.

Trong một tản văn, Nguyễn Mậu Hùng Kiệt đã tiễn đưa một số phận bằng một bận bịu yêu thương rồi bất chợt hiển linh như một nguyện cầu: “Trước mắt tôi chiếc quan tài cứ chập chờn lên xuống và như muốn đậu lại đâu đó trên lưng chừng núi có rất nhiều mây trắng. Rồi nắp quan tài bật mở, cái Hoa với đôi cánh trắng muốt bay lên giữa một vùng hào quang sáng chói” (trong tập Về thương quê kiểng).

“Một lời là một vận vào…”. Cũng nơi lưng chừng núi, bây giờ, mây trắng, và trắng muốt những chiếc khăn… Đưa anh đi đoạn cuối đời người, về lại với quê, bên đồi sim và dòng sông tuổi nhỏ, tự dưng lòng thì thầm câu hát của cố nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển “hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ; về đồi sim ta nhớ người vô bờ” (Thu, hát cho người).

Yên nghỉ! Gối đầu lên núi thênh thang! Anh đã nở một đời hoa trắng muốt!

N.T.A