Quê hương tuổi thơ
Minh họa họa sĩ Hồ Đình Nam Kha
Ánh đèn dầu khi tỏ khi mờ theo từng cơn gió lùa, lãng du như chơi một điệu khúc nhẹ nhàng. Đường dây điện băng qua vườn dẫn vào nhà, chập tối, một cơn gió giật bất ngờ quật gãy nhánh cây lớn, đè xuống làm đứt dây. Tôi định ra khép bớt một cánh cửa chính thì có người phụ nữ bước nhẹ nhàng vô sân.
- Minh ơi!
Tiếng kêu vừa đủ nghe. Cô em dâu tôi vội chạy ra.
- Tùng đó hả? Có chi gấp mà đi đêm đi hôm tối tăm vậy?
Đôi bạn thân, bà con với nhau, vừa đi vừa trò chuyện. Tôi chỉ nghe loáng
thoáng nào là chuyện bên mẹ mình, chạp họ tộc mời con cháu ngoại...
Tôi lịch sự chào em rồi bước ra sân châm điếu thuốc. Người khách là phụ nữ lớn tuổi, nét mặt vẫn còn xinh xinh, đặc biệt là nốt ruồi duyên và nụ cười tươi vui.
Bầu trời sao đêm mờ tỏ. Quê hương nay đã khởi sắc, cuộc sống người nông dân dần khấm khá. Tôi rít một hơi thuốc dài rồi bâng khuâng nhìn khắp khu vườn nhà nội thân yêu - nhà bác, nhà chú vuông góc gần kề.
Lần nào về thăm quê cũng vậy, những kỷ niệm thời thơ ấu bên dòng sông quê êm đềm cứ trỗi dậy. Nơi gian bếp, con mèo mướp hay nằm chơi bên bếp tro than, bà nội vấn khăn xanh thường ngồi bệt xắt chuối, trộn cám cho heo gà vịt. Mẹ thì lo bếp núc, lặt rau, giần sàng lúa gạo. Còn trên nhà, ông nội tôi đọc sách, nhâm nhi trà thuốc nơi bàn giữa gian thờ. Chiếc phản gỗ mát mẻ trưa mùa hạ kê bên cửa sổ rộng có màn kéo, hai ông cháu nằm nghỉ trưa, ông kể bao chuyện xưa tích cũ, nhóc con tôi chăm chú nghe rồi thiếp đi lúc nào chẳng hay. Tình quê hương mãi thiêng liêng, gần gũi.
Rồi bao nỗi buồn trùm lên thôn xóm đang yên vui. Chiến sự lan rộng trong nỗi lo lắng mọi nhà, đại bác trên huyện bắt đầu bắn về, tiếng súng cắc bụp thỉnh thoảng vang lên đâu đó... Tôi đang tua lại những chuyện xưa, nhưng hình ảnh người phụ nữ ấy cứ lảng vảng trong trí óc. Có nét quen quen?
Chú em bước ra sân theo tôi. Anh em cùng nhắc lại biết bao kỷ niệm tuổi nhỏ, chuyện ruộng vườn bờ bãi, đồi cát sông nước cùng vui chơi. Những ngày mùa gặt, đèn manchon sáng choang sân nhà nội để trâu xoay vòng đạp lúa. Bọn trẻ chúng tôi reo cười mỗi khi thấy đuôi trâu rùng mình, uốn cong lên, người lớn bưng rổ vội vã chạy theo sau đít, tức là trâu sắp ị!
Tôi còn nhớ rất nhiều, từng chi tiết, dù chỉ sống làng quê vài năm thơ bé vô tư, giữa mấy lần gia đình vào ra Sài Gòn sum họp với ba.
Gần cổng là cội mai già, cứ gần rằm chạp là ông nội trảy lá. Nơi đó đặt bể cạn có hòn non bộ mà tôi thích nhìn các tiểu cảnh cây lá, cá, chim, tượng be bé sư thầy, tiều phu, lão đi câu. Bà nội trồng giàn đậu ngự bên trên, chùm trái mập thả lòng thòng thật thích mắt... Góc vườn là cây dâu da rất sai quả, chùm trái tận gốc. Tôi từng lén hái ăn trái chưa chín, chua không tả! Và kia, cây xoài hiếm lạ tự tay tôi đặt hột ươm từ quà ba mang về. Còn phía sau, bên luống gừng, luống rau lang, cây bưởi ruột đỏ là mấy cây quýt trái mọng nước do mẹ tôi chiết cành từ nhà ngoại bên kia sông. Sau góc vườn là cái mương nước dài, mỗi trận mưa to nước dâng ăm ắp, anh chị em chú bác tôi nghịch ngợm, thường trộm vài lá chậu lan quý hoa tím lâu tàn, hình lá cong như thuyền để thả trôi, đám trẻ hò reo tay vẫy nước đua thuyền...
Tôi lại nhớ các món ăn quê mùa, nào món đậu mè ruốc sả bùi bùi thơm thơm của bà nội, nhớ lu đựng khoai khô, mẹ nấu chín rồi xắt phơi để cho lũ trẻ ăn dặm nửa buổi, nhớ xoong cá lúi mùa nước lụt, con nào con nấy bụng chửa căng trứng to ăn nhai sừng sực mê người,... và còn món cá cơm kho nước ruốc của thím tôi, khi ăn buổi tối, nghe mùi độc đáo này là tôi xin phép mẹ để mang chén cơm chạy qua nhà chú thím...
Tôi quay mặt nhìn vào nhà. Ký ức đã tua lại rõ ràng hơn. Nụ cười ấn tượng của người khách đó nhất định là tôi đã gặp, nốt ruồi duyên ấy đã từng thân, thậm chí chúng tôi đã cùng nhau...
* *
*
Thằng nhóc tôi xin phép mẹ cho ra hàng chè tàu nhiều dây tơ hồng. Tôi ra đó, tìm hái những chồi tre hóp non tơ mọc chen trong đó nhú ra, hái cho mấy con dế chiến đang nuôi ăn bồi dưỡng.
Hai cây mít có nhiều dái nhỏ đu đưa ngang tầm mắt, một nửa thân gốc ẩn trong bụi cây. Rồi tôi bước ra đến đường xóm tự khi nào. Mấy bụi bông cẩn hoa đỏ, bông chuối nhiều màu lốm đốm mời chào, bọn trẻ chúng tôi thích bứt vòi hoa ở giữa, mút mút hút hút chút nước mật ngọt ngào. Có mấy con châu chấu lớn bằng ngón chân cái, màu xanh điệp với cây lá trên cao. Mắt nó láo liên nhìn tôi sợ sệt, bộ càng dài mập ú sẵn sàng bung nhảy.
Một ngày, tôi đã đi qua chuồng trâu của nhà mình ngoài bìa ruộng tranh, rồi lần men theo con đường đất bên trong nối hai xóm. Từ xa xưa, dân làng chúng tôi gọi đường ngoài bờ sông là đường xe đò, vì hằng ngày có hai chuyến xe từ trên phố chạy ngang xuống huyện rồi chạy qua làng tôi về bến dưới xa, còn đường trong phía đồi, gọi là đường trâu đi. Đường này vắng, một bên là những hàng rào của các nhà liên tiếp, bên kia phía rẫy hoang có nhiều cây dứa dại lắm gai, lồi lõm đầy vết chân trâu bò.
Tôi phát hiện tiếp một con châu chấu mỡ thật to trông rất thích. Nó có mấy viền đen xanh đan xen thật đẹp, hai cái râu thật oai phong. Lúc tôi đang nín lặng, mải mê câu nó, khẽ nhón chân thật cao để đưa cần tre có kẹp chồi hóp non ngon nhất nhử nhử, bất ngờ, một tiếng kêu nhỏ nhẹ nhờ hỗ trợ.
- Anh ơi! Anh gỡ gai cây ngủ ngày ra giùm em với!
Tôi quay lại nhìn và... hết bực bội ngay. Tiếng cô bé trên trời bay xuống thỏ thẻ. Bực bội sao được khi bỗng nhiên có chuyện cổ tích xảy ra diệu kỳ!
Cô bé mặc áo đầm voan trắng thật xinh xắn, có nốt ruồi gần miệng đang nhăn nét mặt, một tay em cầm nhiều loại hoa dại đứng thật gần. Tôi cúi xuống, mau lẹ, như một hoàng tử nghĩa hiệp, tôi cẩn thận gỡ từng chiếc gai cây ngủ ngày ra... Cô bé nhanh chóng chuyển qua trạng thái vui mừng mỉm cười khúc khích. Rồi em đưa tay kia chỉ chỉ vào lùm cây, thỏ thẻ nhờ tôi hái hộ một bông hoa trắng trên cao. Thì ra, do em bước nhanh hái hoa nên mới vô ý bị cây gai chọc ghẹo!
- Em tên gì?
- Dạ, em tên Tùng.
Em ngước nhìn rồi hỏi nhỏ:
- Còn anh?
- Anh tên Dũng.
- A, tên anh giống tên cậu của em!
Thấy cô bé chẳng đội mũ, trời đang lên nắng. Tôi vội nói với giọng dịu êm: “Em núp sát vào bóng cây cho khỏi nắng kẻo bị ốm, ba mẹ la rầy!”.
* *
*
Sáu mươi năm sau, tôi vẫn nhớ mấy bông hoa dại nhiều màu em cầm, em thích tìm hái. Nào hoa me đất màu đỏ, hoa nắc nẻ màu hồng, nào xuyến chi trắng vàng, rồi hoa ngũ sắc,... Em chỉ nhờ hái một bông hoa trắng thôi, nhưng tôi đã hái cho cô bé xóm trên cả bó. Tôi còn ra vẻ người anh trai tài ba, cố sức biến cái cần câu châu chấu thành cái khoèo, móc hái thêm cho Tùng nhiều hoa đẹp.
Tùng cười sung sướng! Tôi thích nhìn nốt ruồi vui vui nơi khuôn mặt em.
Chúng tôi đã cùng nhau đôi lần tung tăng trên con đường liên xóm. Cũng nhờ em tinh mắt chỉ dẫn, nên hôm đó, cuối cùng tôi đã bắt được chú châu chấu mỡ to đùng ấy, khi nó đang tìm đường nhảy trốn qua mấy bụi cây lá!
Nhiều ngày sau, chúng tôi lại gặp nhau nơi đường trâu đi ấy. Hai chúng tôi vô tư, cùng vui đùa êm đềm đuổi hoa bắt bướm, gỡ hái dây tơ hồng, tìm nhổ cây me đất về cho mẹ, cùng nhâm nhi mâm xôi đỏ mọng chua chua ngọt ngọt,...
* *
*
Ba tôi ở trong Nam gửi ra tặng út tôi chiếc xe đạp mới cóng. Có lẽ, đó là chiếc xe đạp trẻ con bằng sắt tây đầu tiên xuất hiện ở làng quê này. Xóm trên xóm dưới đều trầm trồ nhìn ngó.
Hai chị gần như đạp xe được ngay, vì xe có đôi bánh phụ nhỏ phía sau giữ thăng bằng. Mẹ và chị lớn tập cho tôi mấy buổi, hai người thay nhau chạy lúp xúp theo bên cạnh, khi vịn yên sau xe khi thả ra cho tôi dạn dĩ. Sau vài hôm, tôi tự đạp được quanh sân trong tiếng reo mừng vỗ tay của hai chị, mấy em con nhà chú thím, trong ánh nhìn mừng vui của mẹ và ông bà nội.
Một bữa đã quen, xe đã tháo hai bánh phụ, tôi hăng hái đạp ra khỏi cổng nhà. Nơi hiên nhà cao, dưới mấy lồng chim cu, anh trai lớn nhà hàng xóm đã trổ mã biết yêu đương nói vọng ra “Dùng Tũng! Dùng Tũng!”. Tôi tưởng anh chào vui, anh gọi tên tôi, tôi liền nhoẻn miệng sún sung sướng cười chào trả lễ. Thêm vòng xe đạp nữa. Anh ta nói to hơn:
- Dùng Tũng! Dùng Tũng!
Tôi nghe rõ hơn, rồi nghe cả tiếng cười vang của ai đó nữa. Một lúc sau, trí óc tuổi nhỏ của mình mới hiểu ra là anh ta nghịch đùa, trêu ghẹo ghép đôi.
Anh ta nổi tiếng có biệt tài nói lái, hát lái. Ngày ngày anh hay nghêu ngao cao giọng vẳng tới nhà tôi: “Chầy niêu cải phọ a ranh mùng triên. Vằm thê que mệ chem o vùng kề...” (Chiều nay có phải anh ra miền Trung. Về thăm quê mẹ cho em về cùng... - lời bài hát “Quen nhau trên đường về” của Thăng Long, Đức Nội, 1963).
Ôi! Dùng Tũng là Dũng Tùng, tôi tên Dũng và cô bé Tùng dễ thương hái hoa ở xóm trên!
Hiểu ra! Tôi liền thả chiếc xe đạp, mặc kệ của quý giá hư hỏng, chạy vội vô nhà khóc với mẹ.
Ngượng quá! Cả làng xóm anh chị em đều biết. Mắc cỡ quá đi! Huhu. Trốn đầu xuống đất thôi! Thì ra, anh hàng xóm đi bẫy chim cu trên đồi đã nhìn thấy bọn tôi. Anh ta ở trên cây cao nào đó đã trông rõ mấy lần đôi trẻ nhỏ chúng tôi tung tăng chơi đùa trên con đường liên xóm nhiều cây lá, đầy ong bướm đó.
Vậy là tôi ngại ngùng, chẳng còn ra con đường trâu đi ấy nữa.
Chiều hôm trước đó, không ngờ lại là lần cuối đôi trẻ chúng tôi bên nhau chơi đùa vô tư, chưa hề có ai trêu ai ghẹo. Tôi đã liều mạng bẻ mấy lá dứa dại có nhiều gai tua tủa sắc lẻm. Mấy vết gai móc tươm máu chẳng là gì.
Hai đứa ngồi trên khúc cây khô sẵn nơi bờ cỏ, tôi đã thổi bụi, lấy tay mình quét quét sạch sẽ cho cô bé. Tôi thoăn thoắt tước rìa gai, bỏ cọng cứng để tách được mấy dong lá dài rồi gấp xé từng đoạn, từng đoạn dài ngắn, đan xếp, gấp nối thành dây vòng tay nhiều mắc xích cho Tùng.
Cô bé hỉ hả thích thú càng làm tôi phấn khích. Tôi cố công tước sợi nhỏ thật đều, đan ghép thành chiếc nhẫn lá dứa gai nhỏ xíu mặt vuông nhô cao hai tầng xinh xinh, có thể kéo rút rộng hẹp được. Tùng cũng thật sáng ý, em nhìn theo và tôi bày một lát là em làm được các gút, em đan xếp được thành chiếc nhẫn to to tặng tôi.
Lần rất vui hôm đó, tôi dẫn Tùng ra phía sau mấy gốc dứa gai lớn, tới mấy bụi dủ dẻ mà hai chị đã dẫn đi hái. Cây thì nhiều hoa màu vàng, cánh dày, lấp ló trong chùm lá, cây thì đủ trái non có màu xanh nhạt, đám trái chín có màu vàng ươm. Tùng hớn hở reo lên khi biết tên bụi cây lạ. Tôi chọn bẻ một chùm trái chín và một chùm hoa cho Tùng.
Em sung sướng cảm ơn. Tùng cứ đưa dủ dẻ lên mũi ngửi ngửi, công chúa miệng cười hồn nhiên quá đỗi là tươi xinh!
* *
*
- Tùng dễ thương ngày xưa của anh đó!
Em dâu nói vui lúc hai anh em tôi từ vườn vừa bước vào cửa. Minh còn nói thêm:
- Người anh gì mà bỗng dưng không ra lối hoa nữa, có xe đạp mới là quên hết người ta, rồi từ giã làng quê cũng chẳng chào em...
Chẳng rõ hai người bạn thân đã nói, cùng ôn lại điều chi. Em dâu cười vang khi nhắc thêm Dùng Tũng, Dũng Tùng...
Tùng và tôi đều bất ngờ. Tóc em điểm bạc, vẫn nốt ruồi duyên đáng nhớ, đã lên chức bà, Tùng thẹn thùng chạy núp sau bạn Minh. Tôi tóc sương gió hơn, lên tiếng chào em và em cũng lí nhí bẽn lẽn chào lại.
Minh thay Tùng kể sơ qua gia cảnh của bạn thân. Vợ chồng Tùng để lại nhà cho con cháu, rồi về quê sinh sống, chăm mẹ già đã năm, sáu năm nay,...
Anh Dũng khác xưa nhiều quá! Ra đường, Tùng có gặp, chắc cũng không thể nhận ra anh! Tùng vẫn còn nhiều nét duyên xưa! Đèn dầu hắt ánh sáng yếu quá nên tôi không rõ, em có ửng hồng đôi má?
Đã sáu mươi năm xa cách, hai chúng tôi tình cờ gặp lại. Cả hai nhìn nhau, cùng mỉm cười mà chẳng nói thêm được câu gì. Lát sau, mới mở miệng hỏi qua lại nhau về các bậc sinh thành, chuyện gia đình con cái, chuyện công việc, làm ăn...
Sao ngày xưa tôi khờ khạo đến vậy. Được thiên hạ ghép đôi với cô bạn nhỏ mình thích, là đúng ý sung sướng rồi mà! Quả tôi là anh chàng đệ nhất ngu si, đầu óc đần độn.
Thời gian chuyện trò trôi mau. Em Minh nhắc:
- Thôi Tùng về kẻo khuya. Anh Dũng đưa bạn em về được không?
Tôi liền mạnh dạn lên tiếng bù lại cho ngu ngơ ngày xa xưa:
- Để anh đưa Tùng về!
Chú em nghe vậy, vội chạy vào tủ kệ ti vi, lấy đèn pin trao tôi.
- Thôi khỏi em, anh có đèn pin điện thoại rồi - Tôi cười trả lời.
Cô em dâu thật tâm lý. Minh muốn cho tôi và Tùng được tự nhiên sóng đôi dạo bước, trò chuyện riêng tư!
Mỗi đường ngang xóm đều vài cột đèn chiếu sáng văn minh thuận lợi. Đôi bạn lớn tuổi không theo lối trâu đi ngày xưa, thiên đường nhiều hoa lá tuổi nhỏ nay đã mở rộng thẳng tắp, mà sóng đôi ra phía dọc bờ sông đã mở đường thảm nhựa rộng rãi.
Những lần về quê tôi thường một mình dạo quanh xóm làng, vừa đi vừa kiểm tra bộ nhớ. Dẫu trí óc bé bỏng thuở ấy, nhưng tôi vẫn khắc ghi đậm nét trận bão lụt năm Thìn 1964 khủng khiếp thê lương, mái nhà rùng rùng rồi bay mất một phần, bà con chòm xóm í ới giúp nhau trong cơn nguy nan và cả sau khi bão tan, lụt rút ruộng vườn cây ngã xơ xác tan hoang.
Tôi hay đi hết xóm này ra bờ sông, rồi vòng vào xóm khác, luôn theo lối mòn trâu đi. Vừa lang thang nhìn ngắm vừa tìm lại ký ức, thỉnh thoảng tôi dừng chân ghé thăm nhà bà con, chào hỏi vài cụ già trong làng. Tôi thích nhất là ngắm những ngôi nhà vườn hầu như không mấy đổi thay qua bao năm tháng. Những mái nhà cổ may mắn tồn tại qua chiến tranh, bão lũ, cổng vòm hoa lá, vườn cây sum suê trái chín.
Chừng hai mươi năm trước đây. Tôi vượt qua được nỗi ngập ngừng, tò mò hỏi riêng về nhà ba mẹ Tùng trong buổi tối về quê việc họ tộc, anh em nhà chú bác đang lai rai chuyện vãn. Minh - em dâu tôi, kể gia đình Tùng đã vào Nam lập nghiệp. Tôi vui mừng khi biết Tùng có nhắc đến và hỏi thăm về tôi.
* *
*
Bầu trời sao sáng, cao xa soi tỏ mờ mờ, tôi không cần bật đèn pin di động. Tôi và Tùng cảm thấy gần gũi, tự nhiên hơn nên chuyện trò rôm rả. Hương bồ kết dịu nhẹ thoảng qua trong sương đêm mơ màng. Tôi đùa:
- Tùng vô Sài Gòn tìm anh của ngày xưa hả?
Câu chuyện miên man, chuyện cũ chuyện mới đan xen theo bước chân đi. Cả hai đều thong thả chậm bước mà ngõ vào xóm trên đã hiện ra mau chóng. Tùng nhìn tôi, nói:
- Thôi anh về đi!
- Mới đầu xóm thôi! Tới cổng nhà em rồi anh hẵng về!
Cổng nhà Tùng - nơi gợi nhớ câu chuyện khá buồn cười. Hai chúng tôi bỗng hào hứng hỗ trợ nhau nhắc lại. Dạo đó, ba tôi về nghỉ phép, người dắt nhóc tôi với một mâm trà rượu bánh lễ nghĩa lên nhà thầy đồ xóm trên, bên cạnh nhà Tùng, xin vào học vỡ lòng. Tôi thì vừa lo sợ vừa mếu máo, nước mắt nước mũi giàn dụa, lúc đi ngang nhà Tùng thì...
Hàng tre đêm nghe như xào xạc theo mỗi bước chân. Ngọn đèn trước hiên nhà Tùng tỏa sáng đôi hàng cau cao đẹp thẳng tắp và rào chè tàu cắt khéo.
Một mùi hương thơm thoang thoảng, em nhìn tôi như muốn hỏi anh còn nhớ tên. Hoa dủ dẻ! Góc nhà Tùng có trồng một bụi to to. Chúng tôi cùng nhắc lại chuyện xưa một lát trước cổng nhà em, bịn rịn lưu luyến chia tay nhau.
- Anh về nghe! Năm sau, anh sẽ lại về quê, về thăm vợ chồng em!
Tôi nhìn em nói nhỏ. Chào lại tôi xong, Tùng bỗng dưng hỏi:
- Anh Dũng có còn thích tắm sông bến quê mình không?
Nhớ mấy lần về giỗ chạp họ tộc, chiều chiều, mấy anh em nhà chú, nhà bác đều rủ nhau ra bến. Cả bọn già bơi lặn vài vòng, cười nói ầm ào vang cả khúc sông!
Gió đêm như mát lạnh thêm. Mai tôi trở lại phố xa. Tôi quay lại nhìn lần nữa, Tùng vẫn đứng dõi theo, tay vẫy vẫy. Chắc em đang cười, nụ cười có nốt ruồi duyên ngày xưa ấy. Tôi bước tiếp trong ảo ảnh chiếc áo đầm voan trắng, bồi hồi nhớ làng quê thanh bình, chắc chắn cũng như tôi, Tùng cũng nhớ nhiều kỷ niệm tuổi thơ êm đềm, làng quê, dòng sông nhỏ, gia đình yêu dấu, con đường trâu đi nhiều cây gai và hoa cỏ ấy, những mùi hương mộc mạc, cả đôi nhẫn làm bằng lá dứa gai...
Thôn làng chúng tôi, hai bến sông đẹp nhất vẫn còn khá nguyên vẹn. Một là bến xóm trên của Tùng có cây vông cổ thụ rợp bóng, nhiều cấp bệ xây đúc ngồi hóng mát và bến xóm tôi, cây sanh to cao cùng thời xa xưa, nhiều rễ buông thõng đến mặt nước, bờ sông nhiều bông súng trắng đỏ.
Tôi bỗng mỉm cười một mình, nhớ lại một kỷ niệm rất dễ thương. Mấy cây quýt nhà tôi, trái bắt đầu chín vàng. Lúc ra vườn, nhỏ em hay hỏi sao tôi không hái trái ở nhánh cành đó. Vì tôi đã chọn trước một quả to nhất, đẹp nhất để dành, đợi chín vàng trên cây, rồi sẽ cắt tặng em Tùng.
Tuổi thơ. Quê nhà. Thời gian. Vụng dại. Kỷ niệm. Nhìn lên trời sao li ti, tôi nhủ lòng rằng...
Dòng sông quê hương nhỏ nhắn ấy cứ lấp loáng mãi trong lòng tôi - chan chứa yêu thương, hân hoan và thương nhớ.
L.H.P