Nhân vật trong Mưa đỏ - bi kịch của những giấc mơ
Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Mưa đỏ (tác giả: Chu Lai; NXB Quân đội Nhân dân 2025) của đau thương, mất mát. Sự hy sinh của nhân vật Cường và cái chết của Mưa đỏ đã làm bật lên vô cùng phong phú về tính cách và số phận, song có thể tạm chia thành hai tuyến chính: một bên là quân Giải phóng (Cường, Sen, Tạ, Bình, Hải, Tú, Tấn), một bên là quân đội Việt Nam cộng hòa (điển hình là Quang).
Trải qua 81 ngày đêm mưa bom bão đạn, Quảng Trị hứng chịu sự hủy diệt tàn khốc, riêng dòng sông Thạch Hãn và Thành cổ Quảng Trị được ví như “cối xay thịt” - biểu tượng Quang trong một chân lý hết sức đơn giản nhưng vô cùng đau xót: khi chiến tranh xảy ra, chấn thương và đỉnh điểm của nó là cái chết, không loại trừ bất kỳ ai, không phân biệt chính nghĩa hay phi nghĩa.
Thuật ngữ “di căn” hay “di dời” trong lý thuyết chấn thương được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Thứ nhất, đó là sự dịch chuyển của con người trong những không gian, thời gian khác nhau dẫn đến chấn thương, điển hình là “chấn thương do sự di dời ở một đất nước khác lạ” (Christine Cao). Thứ hai, đó là sự hiện hữu của vết thương trên bề mặt thân thể và trong chiều sâu tâm hồn con người, trong khi sự kiện gây chấn thương diễn ra và khi nó trở thành ký ức. Trong Mưa đỏ, chấn thương di căn được hiểu theo cách cắt nghĩa thứ hai. Chu Lai đã phơi bày tất cả những gì đau xót, thảm khốc nhất của chiến tranh trên trang viết. Mưa đỏ là sự góp nhặt và kết nối những mảnh ký ức chấn thương chưa bao giờ lành lặn trong tâm hồn của Chu Lai nói riêng, của dân tộc nói chung.
Tiểu thuyết Mưa đỏ của nhà văn Chu Lai
Và có lẽ, đó cũng là cách để Chu Lai và những người lính từng vào sinh ra tử trong chiến tranh tìm thấy sự giải thoát cho chính mình, bằng cách đối diện với nỗi đau và kể lại câu chuyện về một thời máu lửa, mất mát, hy sinh mà thế hệ trước trải qua.
Những thân thể rách nát...
Là người lính cầm súng chiến đấu trong giai đoạn bão táp của đất nước, hẳn không ai có thể tránh khỏi những vết thương. Chiến tranh đã “đóng dấu” lên thân thể con người những vết thương, mà cho dù người ta dũng cảm đối diện với nỗi đau hay cho rằng đó là “huân chương kháng chiến” để tự an ủi chính mình, thì đau thương và mất mát vẫn ám ảnh và không thể xóa nhòa. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, việc bảo vệ Thành cổ Quảng Trị (1972) có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần làm thất bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Bởi thế, dù thương vong đến đâu, những người lính Giải phóng quân vẫn kiên cường giữ vững Thành cổ.
Ra đời sau chiến tranh, Mưa đỏ của Chu Lai không ngần ngại phơi bày những tổn thất do chiến tranh gây ra, đặc biệt là tổn thất to lớn về người. Mỗi chương tiểu thuyết, nhà văn tái hiện chân thực, chi tiết những vết thương khác nhau hiển lộ trên thân thể của người lính. Đó không hề là sản phẩm của trí tưởng tượng Chu Lai, mà là những trang viết rất thật từ một người đã từng kinh qua chiến tranh, mang trên mình những chấn thương do bom đạn để lại. Rời giảng đường, gia đình, quê hương dấn thân vào đời lính, ấn tượng ban đầu của những người lính trẻ về chiến tranh là hàng loạt thương vong khủng khiếp: “người thương binh băng kín đùi, chỗ có mẩu xương gãy chọc lên hồi sáng đang nằm rên rỉ ở cửa hầm” (tr. 119), “Người thương binh quằn người lên, răng nghiến vào thanh gỗ ken két như tiếng mọt gặm trong đêm, mồ hôi vã ra, vẻ đau đớn tột cùng. Lưỡi cưa đẫm máu vẫn nghiến xoèn xoẹt vào xương người, thỉnh thoảng lại vấp cái cục!” (tr. 232)…
Trên nền chấn thương tập thể, Chu Lai tập trung làm nổi bật nỗi đau của từng cá nhân, dừng lại để miêu tả kỹ càng chấn thương của từng nhân vật cụ thể mà đỉnh điểm là cái chết thảm khốc. Sau hành vi tra tấn dã man vẫn không khuất phục ý chí quật cường của Hải, kẻ thù đã thiêu sống anh trong lửa đỏ. Cảnh hành quyết Hải thật kinh hoàng: “Lửa bùng lên, liếm nhanh, trùm lên anh. Phút chốc, toàn thân người chiến sĩ đã hóa thành ngọn đuốc sống cháy giữa mênh mông hoang tàn, cháy ngút lên trời cao trộn vào lửa khói” (tr. 389). Cái chết bất ngờ ập đến với Bình khiến cho cả tiểu đội bàng hoàng, xót tiếc, nhất là khi tiểu đội bảy người chỉ còn lại ba. Càng về sau, đế quốc Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa càng tăng cường vũ khí hạng nặng cày xới chiến trường Quảng Trị. Dưới làn đạn quân thù, Bình “đổ gục vì một loạt đạn 20 ly phóng xuống găm lỗ chỗ đầy thân thể”, “lồng ngực bị phá toang, máu từng đợt sùi ra sủi bọt” (tr. 408). Hy sinh nối tiếp hy sinh. Cường, một sinh viên Nhạc viện tâm hồn mơ mộng, đầy hoài bão, cũng bị tước đoạt những gì hồn nhiên nhất của tuổi trẻ. Xuyên suốt Mưa đỏ, nhiều lần Chu Lai đặt Cường trong thế đối đầu với địch, vừa làm toát lên phẩm chất anh dũng, kiên gan của chàng trai trẻ, vừa làm nổi rõ thân phận của người lính khi phải đối mặt với ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Trong cuộc đối đầu cuối cùng với địch, “những đường dao loang loáng xẹt qua xẹt lại vào da thịt anh, cứa sâu” (tr. 437), “hắn bất thần tung một cú đá ngược cực mạnh vào giữa ngực anh” (tr. 437). Cuộc đời người lính trẻ kết thúc bằng “một loạt tiểu liên cực nhanh rất căng phóng xuống mép sông, phóng chính xác vào chỗ hai thân hình kia đang vật lộn, vẫy vùng, tung tóe nước” (tr.48). Sự hy sinh của Cường và nhiều đồng đội khác trong Mưa đỏ đã minh chứng cho vấn đề trải nghiệm chấn thương trong chiến tranh, nó không chỉ lấy đi sinh mạng mà còn thay đổi vĩnh viễn nhận thức và tâm lý con người.
Chu Lai viết: “chiến tranh là vậy, nó chẳng chừa một ai” (tr. 75). Quả thế, trong chiến tranh, dù là phe chính nghĩa hay phi nghĩa, dù chiến thắng huy hoàng hay thất bại thảm hại, thì mất mát, hy sinh là điều không thể tránh khỏi. Thực tế, cuộc chiến không có người thắng hay kẻ thua tuyệt đối, bởi dù ở phe nào thì người lính cũng phải đối diện với nỗi đau và mang trên mình những vết thương. Bên cạnh hình tượng người lính Giải phóng xông pha trên tuyến lửa Quảng Trị, Chu Lai còn tập trung xây dựng hình ảnh người lính Việt Nam cộng hòa với tính cách, phẩm chất đặc trưng của quân đội tay sai (mưu mô, gian xảo), đại diện là nhân vật Quang. So với nhân vật Quang trong tiểu thuyết Mưa đỏ, Quang ở phiên bản điện ảnh ra mắt năm 2025 do Đặng Thái Huyền làm đạo diễn có sự gia giảm các yếu tố tính cách. Về nhân vật Quang, phim điện ảnh Mưa đỏ chú trọng vào đời sống nội tâm, bản chất người của một kẻ lầm đường lạc lối. Tuy nhiên, ở phiên bản nào thì nhân vật Quang cũng là hình ảnh con người chấn thương trong khung cảnh nghiệt ngã của chiến tranh. Ở hai chiến tuyến khác nhau, chiến đấu với lý tưởng khác nhau, song Quang và Cường lại có nhiều điểm tương đồng: cùng yêu một người con gái, nhiều lần đối đầu với nhau, cùng kết thúc cuộc đời sau “một loạt tiểu liên cực nhanh rất căng phóng xuống mép sông, phóng chính xác vào chỗ hai thân hình kia đang vật lộn” (tr. 438). Với Cường, “loạt tiểu liên cực nhanh” kia là của kẻ thù; còn với Quang, đó là làn đạn của chính đồng đội mình - những người đứng cùng với Quang trong hàng ngũ của Việt Nam Cộng hòa. Đó là cái giá mà nhân vật Quang phải trả. Và rõ ràng, Chu Lai đã rất khéo léo khi sử dụng hình tượng hai người lính đối lập để nêu bật thông điệp mạnh mẽ về chiến tranh.
Và những tâm hồn không lành lặn...
Không chỉ riêng trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt, ở bất kỳ hoàn cảnh nào dẫn đến chấn thương, vết thương thân thể luôn tiềm ẩn nguy cơ để lại những sang chấn tâm lý sâu sắc. Chiến tranh đi qua, con người có điều kiện nhìn lại những chấn thương đã qua để phát hiện ra rằng, có những nỗi đau tuy không hiển lộ trên thân thể nhưng nó âm ỉ, dai dẳng và đày đọa con người không thua gì vết thương rỉ máu. Bom đạn chiến tranh, sự hy sinh đẫm máu của đồng đội, cảnh đổ nát hoang tàn, đất nước bị chia cắt, miền Nam ngùn ngụt khói lửa đã tạo nên một thế giới hình ảnh xô lệch, méo mó, ám ảnh trong vô thức người lính. Trong Mưa đỏ, hầu như tất cả các nhân vật đều mang những sang chấn tinh thần, ám ảnh do chiến tranh. Ngay từ những ngày đầu bước vào chiến trường Quảng Trị, những người lính trẻ rơi vào trạng thái căng thẳng, hãi hùng triền miên: “Tại hầm của Tạ, Tú đang hai tay bưng chặt lấy đầu, mỗi tiếng rít lại khiến cậu co rúm lại, mỗi tiếng nổ lại làm toàn thân cậu giật nẩy lên” (tr.108). Hình ảnh Tú - chàng trai trẻ nhất trong tiểu đội, tâm hồn trong sáng, vốn chỉ quen với sách vở, trường lớp, đã “kinh hãi” vô cùng, “hai mắt bạc phếch như muốn lồi ra, toàn thân tê dại như nửa đêm phải đứng trước một cái xác sống kinh dị” (tr.113). Đó không chỉ là sự sợ hãi thông thường, mà còn là cú sốc tinh thần khi lần đầu tiên đối diện với hiện thực nghiệt ngã, vượt quá sức tưởng tượng của cậu học trò. Hình ảnh này là minh chứng đắt giá cho vấn đề chấn thương trong văn học chiến tranh, khi chiến tranh không chỉ hủy hoại thể xác mà còn tàn phá tâm hồn, để lại những vết sẹo tinh thần sâu sắc, khó có thể chữa lành.
Chiến tranh đi qua nhưng nỗi đau vẫn còn âm ỉ mãi. Từ góc nhìn lý thuyết chấn thương, cái chết, dẫu là đỉnh điểm của chấn thương và đớn đau, cũng chưa phải là điểm dừng của chấn thương. Bởi nó sẽ còn tác động đến những người còn sống sau cuộc chiến tranh, nó không chỉ “di căn” từ thân thể đến tinh thần, mà còn “di dời” từ quá khứ đến hiện tại, từ chiến tranh đến thời bình. Những Cường, Tạ, Tú, Bình… hay Quang và vô số chiến sĩ khác hy sinh ở Thành cổ Quảng Trị, trên sông Thạch Hãn, để lại nỗi đớn đau khủng khiếp cho người thân. Hình ảnh người mẹ mất con xuất hiện ở cuối tiểu thuyết Mưa đỏ có sức nặng rất lớn trong việc diễn xuất chấn thương của Chu Lai: “Toàn thân người mẹ chợt chênh chao như vấp phải cơn gió lạnh. Bà ngồi xuống, gầy guộc, bé nhỏ và già nua”, “Mắt người mẹ nhòa đi nhưng những giọt nước mắt vẫn khô quánh không chảy ra nỗi, hay nó đã chảy ra đến cạn kiệt suốt những ngày qua rồi. Bà sẽ cứ ngồi như thế, ngồi như một bức tượng đài mất mát thiên thu” (tr.443). Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn dành nhiều trang văn để tái hiện cảm giác của người mẹ, khi thì “cảm giác nhờn nhợn khi giẫm phải những mảnh kim loại giá lạnh, nhọn hoắc như vẫn còn nóng bỏng trộn sâu vào đất cát” (tr.444), khi lại là “cảm thấy đang đặt chân lên chính xương thịt của đứa con mình” (tr.444). Chiến tranh tàn khốc, sự mất mát, hy sinh để khoảng trống không thể lấp đầy, vết thương khó có thể chữa lành nơi người mẹ. Cũng như trong chiến tranh, dù là ta hay là địch, cũng phải hứng chịu những vết thương; ở trong thời bình, dù người mẹ có con là lính Giải phóng quân hay người mẹ có con là lính Việt Nam cộng hòa, thì mất con vẫn là nỗi đau chung thấu đọng, vụn vỡ. Nỗi đau tinh thần dai dẳng ấy đã được nhà văn cụ thể hóa qua khuôn mặt, dáng hình và cảm xúc, trạng thái của nhân vật mẹ Quang: “Đó là khuôn mặt buồn buồn đã nhăn nheo do thời gian, do cả khổ đau, mất mát của người mẹ một thời quyền quý của Đại uý Quang” (tr. 448).
Phải chăng, những năm tháng chiến tranh, kinh nghiệm chiến trường và cả những “kinh nghiệm chấn thương” đã giúp Chu Lai có cái nhìn sâu sắc, chạm vào cả những đớn đau trong tâm hồn người lính thời binh lửa? Hiểu như thế để thấy rằng, viết chính là cách mà Chu Lai lựa chọn để chữa lành những nỗi đau chính mình. Tự thuật chấn thương và diễn xuất chấn thương trong Mưa đỏ chính là hành động giãi bày, “tự sự” những “chấn thương nguyên ủy” (primary trauma) của một người lính.
P.K.D