Bám biển
Minh họa NGUYỄN DŨNG
Đỗ Hoàng Bảo Thy hiện học lớp 10/4, Trường THPT Nguyễn Khuyến, thành phố Đà Nẵng. Em là gương mặt trẻ năng động, yêu văn chương và từng tham gia Trại sáng tác Văn học thiếu nhi do Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Đà Nẵng tổ chức. Những trải nghiệm ấy đã giúp em nuôi dưỡng tình yêu sáng tác, trau dồi thêm kỹ năng viết và nuôi ước mơ gắn bó lâu dài với văn chương.
Truyện ngắn “Bám biển” của Bảo Thy được viết bằng giọng văn mộc mạc, tái hiện sinh động cuộc sống nhọc nhằn nhưng kiên cường của ngư dân miền biển. Tác phẩm không chỉ phản ánh những lo toan, mất mát, mà còn gửi gắm niềm tin, niềm tự hào và tình yêu sâu nặng của thế hệ trẻ đối với truyền thống của cha ông.
Tác giả Đỗ Hoàng Bảo Thy
Tạp chí Đất Quảng trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Bám biển” của Đỗ Hoàng Bảo Thy đến bạn đọc.
BÁM BIỂN
Nhà có truyền thống bám biển bao đời nay, dường như hương vị mặn mòi của biển cả đã thấm đẫm vào máu thịt, trở thành hồn cốt của những ngư dân miền biển. Mỗi buổi sớm, chỉ cần vài bước qua con đường nhựa là đã chạm tới mép sóng. Đêm, không ngủ được, tôi nằm nghe tiếng sóng vỗ vào bờ cát gần bên, vừa thân thuộc vừa xa xăm như vọng từ cõi nào. Tiếng sóng thong dong dội vào đêm tĩnh lặng, len theo lối gió, phủ khắp làng biển. Để rồi, ai đang buồn lại càng buồn thêm, ai mang nỗi nhớ lại càng nhớ nhiều hơn.
Bình minh vừa hé, tôi bước ra bãi biển, lòng háo hức chờ ba trở về sau chuyến đi biển đêm. Biển Thọ Quang buổi sớm yên ả mà rộn ràng, từng con thuyền lần lượt nối đuôi nhau cập bờ, mang theo những “thức quà” mặn mòi của biển cả: tôm, cá tươi rói còn ánh bạc. Sóng bạc đầu mũi thuyền cứ dồn dập tung bọt trắng xóa, nhưng những con thuyền vẫn hiên ngang, vững chãi đạp sóng tiến vào, khoang đầy ắp cá tôm. Trên bờ, đôi mắt những người vợ, người mẹ không rời khỏi mặt biển, vừa khắc khoải chờ chồng con trở về bình an, vừa mong sớm có mẻ hải sản tươi để kịp mang ra chợ. Cùng lúc ấy, từng nhóm thương lái cũng đã tụ về, sẵn sàng đón chuyến thuyền cập bến. Chỉ trong chốc lát, cảnh mua bán, phân loại hàng hóa trở nên tấp nập, náo động cả một góc biển bình minh.
Từ xa, tôi đã nhận ra chiếc thuyền của ba đang rẽ sóng hướng vào bờ. Tôi cùng mọi người chạy đến, chung tay đưa ghe lên bãi cát. Ba là người dạn dày biển cả, hơn ba mươi năm bám nghề, vóc dáng nhỏ bé, làn da rám nắng đậm màu gió sương - tất cả đều khắc họa rõ hình hài của một ngư dân làng chài. Thế nhưng, trái ngược với thân hình gầy gò ấy lại là giọng nói sang sảng, mạnh mẽ như sóng vỗ. Trong lúc phụ ba gỡ cá khỏi lưới, tôi bất giác thốt lên một lời tuyên bố với ba:
- Chuyến sau con đi biển với ba!
- Con nói chi! Ba biết rồi, ba nghe họ nói muốn có việc phải chạy vài chục, vài trăm triệu. Mai con đi hỏi đi, họ cần mấy, ba ráng kiếm tiền chạy cho con! - Ba nhăn mặt, thở dài, tay vẫn cứ thoăn thoắt lấy cá.
- Ba à, thời buổi ni khó có công ăn việc làm lắm ba. Chạy chỗ ni chỗ kia chi cho khổ. Ba cứ cho con đi biển, nối nghiệp cha ông. Với lại từ nhỏ con đã theo ba đi biển đánh bắt. Sinh ra ở miền biển, không làm nghề biển thì con cũng chẳng biết làm nghề chi ba ơi.
Ba vẫn kiên quyết không cho tôi trở lại biển cùng ông.
- Không biển cả chi hết! Biển bạc… Ông vừa bực vừa đứng phắt dậy cầm rổ cá đi bán cho thương lái, nói lớn:
- Chuyến ni lỗ tiền dầu. Mi thấy chưa, được chi nơi biển mà mi còn theo…
Tôi biết tính ba nói là làm cho bằng được, nhưng vẫn cố nói thêm:
- Cho con đi biển đi Kiếm ăn thì kiếm chỗ mô chẳng được - Tôi buông tiếng thở dài hơn con đường đi tìm việc làm hơn hai năm nay của tôi, nhìn theo bóng lưng ba đang trả giá với thương lái.
Biển hiền hòa, hào sảng ban tặng cho ngư dân cuộc sống no đủ, nhưng cũng lắm khi nổi giận, cuồng nộ, cướp đi bao phận người. Ông nội tôi cũng là một ngư dân, cả đời gắn bó với sóng gió. Trong một chuyến ra khơi định mệnh cách đây mười chín năm, ông đã vĩnh viễn nằm lại giữa biển khơi. Người trong nhà vẫn nhắc mãi cái ngày bà nội ôm chặt đứa em gái vào lòng, gào khóc đến lạc giọng khi hay tin con thuyền chở chồng và người em rể đã bị nhấn chìm.
Chiều nào cũng vậy, khi hoàng hôn dần buông, bóng bà lại cặm cụi bước trên bãi cát, ánh mắt đăm đắm hướng ra khơi xa, nuôi hy vọng mong manh rằng ông sẽ được một con thuyền nào đó cứu vớt. Ba tháng ròng sau tai nạn, hai người phụ nữ tảo tần ấy cứ dắt díu nhau đi khắp các làng chài ven biển, nghe ngóng tin tức. Chỉ cần ai mách ở đâu có xác người trôi dạt vào bờ là lập tức tìm đến, nhưng lần nào cũng trở về trong tuyệt vọng. Bà tôi nuốt ngược nước mắt vào lòng để gượng sống, nuôi con với niềm tin mong manh rằng chồng mình rồi sẽ trở về.
Đau đớn thay, bi kịch ấy lại chẳng phải chuyện riêng của gia đình tôi, mà là hình ảnh chung của bao người phụ nữ miền biển. Cả đời họ sống trong thấp thỏm, dõi mắt trông chồng con lênh đênh giữa trùng khơi, còn mình thì lặng lẽ gánh vác hết việc nhà. Những ngày hiếm hoi cả gia đình được sum vầy, họ chưa kịp tận hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn đã lại tất bật chuẩn bị lương thực, đồ đạc cho chuyến ra khơi mới. Biển động thì lòng người cũng cuộn sóng: họ mòn mỏi chờ tin, khắc khoải ngóng từ chồng đến con, hóa thân thành những “hòn vọng phu” thời hiện đại. Người ta vẫn nói “Lấy chồng nghề biển hồn treo cột buồm”, tai họa có thể ập đến bất cứ tổ ấm nhỏ bé nào, đã không ít phụ nữ trở thành góa phụ vì cơn giận dữ của biển cả. Có lẽ nỗi ám ảnh ấy đã hằn sâu trong tâm khảm ba tôi. Từ khoảnh khắc định mệnh kia, ông gồng mình làm trụ cột gia đình, cùng bà nuôi các em thơ dại, và cũng từ ấy, ông lặng lẽ quyết định: con trai mình sẽ không nối nghiệp biển.
Không phụ sự kỳ vọng của ba, tôi và các em trong gia đình đều học giỏi. Ngày tôi đậu đại học, ba như nhẹ lòng hẳn: “Ba biết mà! Răng rồi con trai ba cũng đậu đại học”. Còn mẹ tôi thì âm thầm cười mỉm hạnh phúc. Ở làng biển của tôi, đậu đại học là một sự kiện lớn. Ngày tôi khăn gói nhập trường, nhà tôi nhộn nhịp người vào ra, người cân ruốc, người cân cá cơm khô, có người còn kho cả một nồi cá ngừ to mang sang cho tôi. Hàng xóm ai cũng cười rạng rỡ gửi những lời chúc mừng đến tôi. Lúc đó, tôi thấy mình như một vì tinh tú rơi xuống làng biển, cảm giác tự hào, sung sướng. Mẹ động viên:
- Cố gắng lên nghe Đi học đại học, ở trọ có gì khó khăn phải gọi điện về cho ba mẹ đó...
Tôi lên đại học, bỏ lại sau lưng ngôi làng nơi mình đã sinh ra và lớn lên, bỏ lại những đêm trăng sáng ngời ở bờ cát, bỏ lại những chuyến đi biển thú vị, bỏ lại câu hẹn của cô bạn gái tình đầu:
- Đi rồi nhớ về lại đó nghe! Nhớ thường xuyên gọi về đó!
- Ờ! Phải về chớ, không về nhớ chết đi được!
Ngồi trên xe, ký ức về chuyến đi biển đầu tiên năm mười hai tuổi lại ùa về. Hồi ấy, tôi đã năn nỉ ba đến “gãy lưỡi” suốt cả tuần, thêm cả lời nói đỡ của mẹ, ba mới chịu cho tôi theo ra khơi đánh bắt gần bờ. Nghĩ lại mới thấy, cái tuổi mới lớn thật cứng đầu, nếu không nhờ mẹ can ngăn, chắc tôi đã ăn đòn đến nát mông. Lần đầu bước chân lên thuyền, tôi choáng ngợp trước mùi vị mằn mặn của gió biển. Những cơn gió ào ạt như táp vào mặt, để lại vị chát nơi môi, nơi má. Tóc hai cha con dựng đứng, rối tung, cứng ngắc chẳng khác nào các ca sĩ được xịt keo trước khi bước lên sân khấu. Nhìn nhau, chúng tôi bật cười vang giữa sóng gió. Ba vừa điều khiển con thuyền, vừa kiên nhẫn chỉ tôi cách nhìn nước đoán luồng cá, cách chọn vùng để thả lưới, buông cần, hay dừng thuyền. Hồi ấy, tôi vừa háo hức, vừa ngây ngô, cảm giác như mình đang được bước vào một thế giới bí ẩn, đầy cuốn hút mà chỉ những người con của biển mới hiểu hết.
Suốt bốn năm học đại học, nỗi nhớ biển trong tôi cứ chực trào. Mười tám năm sinh ra và lớn lên ở biển, tôi vốn đã quen với mùi vị nồng mặn của nước biển, mùi cá tươi tanh nồng, tiếng sóng ở bãi biển. Đi học đại học, thiếu dư vị của biển, tôi mất ngủ, bên tai cứ văng vẳng lời của cô bạn gái: “Đi rồi nhớ về lại đó nghe!”.
Tôi tốt nghiệp đại học trong niềm tự hào vô bờ của cha mẹ. Ngày trở về, hôm trước vừa đặt vali xuống ngưỡng cửa hôm sau ba đã hối tôi đi xin việc làm. Ấy vậy mà, tôi lại thẳng thắn nói rằng mình muốn theo nghề biển.
Đối với ba, đó chẳng khác nào một tiếng sét ngang tai. Cả đời ba chỉ khát khao con cái có công ăn việc làm ổn định, đến hẹn lại lên nhận lương, không phải đánh cược mạng sống với sóng to gió lớn. Gương mặt rám nắng của ba thoáng chùng xuống, rồi ông bất ngờ quát lớn:
- Không được! Có việc làm ổn định không phải tốt hơn sao! Mai con cứ đi xin việc, bao nhiêu tiền ba cũng lo!
- Không, con không đi!
- Vì răng?
- Con muốn đi biển! Mắc chi phải đi xin xỏ mệt rứa!
- Mi tưởng muốn đi biển là đi à? Đi biển nhìn xuống thì thấy biển xanh mênh mông bất tận, ngửa mặt lên cũng chỉ có trời cao vời vợi. Ta đi chục chuyến, được ba mất bảy. Bạn tàu bỏ lên bờ hết. Mi đi với ai? Công ta cho mi ăn học, chừ mi vứt hết à!
- Con không vứt…
Bốn năm đại học đã cho tôi thêm kiến thức về chuyên ngành thủy sản. Tôi tin rằng, nếu đem những điều đã học áp dụng vào nghề biển ở làng mình, cũng có thể giúp ích phần nào. Nhìn thấy gương mặt ba bắt đầu nóng bừng, tôi vội hạ giọng, vừa cười vừa dỗ dành:
- Ba à! Nghề đi biển dù biết là khổ trăm bề nhưng chính ba cũng luôn bám biển dù mẹ có khuyên thế nào. Ba cũng từng nói mỗi khi được ra với biển cả mênh mông, ba như được thấy ông, thấy những cố nhân ở đó, họ luôn che chở, nâng đỡ cho ba dưới mỗi con sóng thăm thẳm kia mà.
Mẹ bỗng từ trong phòng ngủ bước ra. Mẹ ít nói và không tham gia tranh cãi vào chuyện gia đình. Lâu nay, bà nhẫn nại chiều chồng chiều con như kiểu nói sao làm vậy, nhưng lần này bà lại lên tiếng:
- Lần này tui thấy thằng Dư nói đúng đó! Tui cũng khuyên ông chục lần, ông có nghe đâu. Dù có những lúc biển cả giận dữ nổi sóng lớn, ông vẫn quyết chí đi biển đó thôi! Con lớn rồi, cứ để hắn tự quyết định.
- Tui nói không đi là không đi!...
Ba như muốn nói thêm gì đó nhưng lại thôi, rồi đi về hướng phòng ngủ.
- Khuya rồi. Ngủ đi Kệ ổng, con muốn thì cứ đi!
Nói xong, mẹ cũng vào phòng ngủ, để lại tôi với những dòng suy nghĩ miên man. Tôi biết ba cũng vì lo cho tôi mà một hai cứ muốn tôi tìm việc làm, chứ thực ra ông cũng là người yêu biển đắm đuối. Tôi giống cha, tôi cũng yêu biển và đã nói là làm.
Sau cuộc tranh luận tối hôm ấy, ba tôi bỗng ít nói hẳn. Ông không còn cà kê kể chuyện thằng Dư thế này thế nọ nữa, chỉ lặng lẽ suy nghĩ, nhưng vẫn kiên quyết cấm tiệt không cho tôi bước lên tàu. Chuyến đánh bắt xa bờ vừa rồi, tôi lại lân la: “Ba à, thiếu bạn đi thì ba cho con theo với. Coi như ba thuê người thôi mà. Ba cứ coi con như bạn thuyền là được”. “Đừng phỉnh ba, thương ba thì ở đó lo kiếm việc làm đi!”. Nói rồi ông nhảy phắt lên thuyền, nổ máy chạy. Đứng trên bờ tôi tần ngần nhìn theo dáng ba. Trong chùm nắng rẻ quạt cuối chiều, dáng ba đứng đầu mui thuyền lừng lững, tóc ông tung lên theo chiều gió…
Tôi cười thầm, ba tôi ăn sóng nói gió nhưng sống rất tình cảm. Nhìn sang mẹ, lúc còn nhỏ tôi không biết, khi đã lớn rồi, cứ sau mỗi chuyến ba đi biển về là tôi thấy đôi mắt mẹ lấp lánh, mặc dầu tôi chẳng bao giờ nghe hai người nói với nhau một lời âu yếm nào. Nhưng chuyến đi biển này lại khác, mắt mẹ chưa kịp lấp lánh thì đã ngập nước. Ba hôm sau, khoảng một rưỡi sáng, trời bỗng nổi mưa. Tôi nằm trên giường thao thức, nghĩ tới ba mình vẫn lênh đênh trên biển mà lòng bồn chồn, thầm cầu nguyện cho ba an toàn về bờ. Không ngủ được, tôi bước xuống nhà, mẹ tôi đang đứng trước cửa nhà, mắt nhìn đăm đăm phía ngoài. Tôi cất tiếng:
- Sao mẹ chưa ngủ?
- Tự nhiên mẹ thấy lo cho ba con quá, cứ có cảm giác gì đó bất an lắm!
- Không sao đâu mẹ. Mẹ đi ngủ đi mai còn ra chợ, trễ rồi mẹ!
Mẹ không nói gì, lẳng lặng nhìn ra cửa. Thấy vậy, tôi xuống bếp rót cho mẹ ly nước ấm. Cầm ly nước trên tay, đột nhiên tôi nghe tiếng chạy lạch bạch ngoài cửa tiến vào, bác Thiết hàng xóm mặt hoảng hốt, thở dốc nói lớn:
- Chị Lành ơi, tàu của chồng chị với tàu của anh Sang, anh Văn gặp lốc xoáy, chìm rồi!
Tay chân tôi lập tức trở nên bủn rủn. Xoảng! Ly nước tuột khỏi tay tôi, vỡ tan tành, cùng lúc mẹ tôi ngã quỵ xuống…
- Anh Tài ơi! Anh Tài!...
Tiếng rơi vỡ của ly nước, tiếng kêu thất thanh của mẹ làm hai đứa em tôi từ chạy ra:
- Có chuyện chi hở anh hai? Mẹ ơi răng mẹ khóc rứa? Ba đang đi biển mà mẹ! - Đứa em tôi cất tiếng hỏi.
Nhìn đôi mắt hồn nhiên của em gái, tôi lạc giọng, không nói được gì. Nhưng đứa em gái lớn thì đủ biết chuyện đang xảy ra:
- Thuyền ba… thuyền ba gặp nạn hả anh hai?
Tôi gật đầu nhẹ, rồi ra hiệu cho Khuê đưa em về phòng, chạy lại đỡ mẹ. Mặt con bé trở nên mếu máo nhưng vẫn nghe theo lời tôi, dỗ dành em về phòng. Lúc đó, bà tôi và mấy cô vợ của những ngư dân gặp nạn chạy sang. Mặt ai cũng đầy lo lắng, nước mắt lăn dài trên gò má. Các cô không nói gì chỉ ngồi ôm nhau khóc, họ thức trắng đêm chờ tin chồng, cầu trời mong một phép màu nào đó sẽ đến.
Sáng sớm hôm đó, hàng xóm láng giềng tới thăm, an ủi động viên, khích lệ tinh thần mẹ và những người phụ nữ khác. Căn nhà cấp bốn chật kín người, một bầu không khí ảm đạm, u ám bao trùm lấy, thỉnh thoảng tôi lại nghe tiếng khóc thút thít, gọi tên người thân trong bất lực. Mẹ tôi mệt nhoài, tựa lưng vào ghế, mắt sưng húp, khuôn mặt đờ đẫn, lo lắng. Ai nói gì, bà cũng im lặng mà gật đầu vô hồn. Từng phút, từng giờ nặng nề trôi qua, lòng tôi như lửa đốt, lúc nào cũng cầm khư khư điện thoại bên mình chờ nghe tin báo. Ba tôi đã gặp nạn trên biển hai lần, một lần gãy chân nhưng vẫn trở về trong bình an, tôi mong lần này cũng vậy…
Năm ngày từ khi tin sét đánh về tàu của ba gặp nạn, tiếng khóc nấc bàng hoàng của người thân giờ đây chỉ còn im bặt. Im lặng và mong mỏi. Im lặng đến nhói lòng. Chỉ những ánh mắt đỏ hoe đau đáu nhìn về phía biển, cầu mong phép màu đến với hai mươi mốt ngư dân gặp nạn. Tôi chờ đợi tin tức trong thấp thỏm lo sợ, mất ăn mất ngủ… Tối muộn hôm đó, tôi nhận được điện thoại báo đã có tàu phát hiện và cứu vớt mười chín ngư dân, bảy giờ sáng ngày mai sẽ đưa về cảng. Tôi mừng quýnh vội thông báo cho mẹ và em. Cả nhà tôi ôm nhau, âm thầm rơi những giọt nước mắt hạnh phúc. Lúc ngọn lửa hy vọng của tôi dường như đã bị thực tại làm cho tắt ngóm, tôi lại nghĩ khi trái tim còn đập thì đừng từ bỏ hy vọng và lại thắp lên cho mình hy vọng lần nữa. Tối hôm đó, tôi không thể chợp mắt nổi, vui lâng lâng trong người, tôi mong chờ ngày mai sẽ đến thật nhanh để được ôm ba, được nghe lời trách mắng của ba và được thấy đôi mắt lấp lánh của mẹ lần nữa.
Từ sáng sớm, cầu cảng đã đông nghịt người. Tàu cập cảng, tôi bắt đầu dò mắt tìm ba Tài. Từ đằng xa tôi thấy một chiếc cáng được đưa xuống, tôi chạy thật nhanh lại gần. Là ba, tôi mừng rỡ, lớn tiếng gọi mẹ và các em. Đôi mắt của ba gắng mở để nhìn người vợ và các con là hy vọng mà ông cố gắng níu giữ để sống sót trong năm ngày lênh đênh trên biển. Người lính bên cạnh nói:
- Anh Phan Văn Tài lúc được tìm thấy đã rơi vào tình trạng nguy kịch do bị kiệt sức, chỉ cần được nghỉ ngơi hồi sức sẽ ổn thôi.
- Sống rồi! - Ba cất tiếng nói thều thào, nở nụ cười sau nhiều ngày chơi vơi trên lằn ranh sinh tử.
Mẹ tôi cười rạng rỡ, đôi mắt lại lấp lánh, nắm đôi bàn tay của ba. Hai đứa em tôi còn tự làm một bình thủy tinh nhỏ đựng ốc và vỏ sò tặng ba. Ba tôi nhận bình ốc mà đôi mắt đỏ hoe:
- Ba cảm ơn Khuê, Lam Dư này, lại ba nói, đời ba, đời ông con đều gắn liền với biển cả. Cũng không ít lần ba run sợ trước sự giận dữ của biển. Nhưng nói thật, sự run sợ đó chẳng đáng kể gì so với lòng yêu nghề của ba. Còn người, còn của là ba cùng các bạn nghề lại tiếp tục đi biển. Nó như là mạch máu, là hơi thở của ba rồi. Ba không muốn con đi biển cũng vì mong con sung sướng, con không hiểu cho ba…
- Con không muốn sướng một mình, ba à! Nhà mình cũng đâu có nhiều tiền bạc mà chạy chọt như người ta!
- Ba biết. Tính con giống ba, muốn là phải làm cho bằng được. Chừ sức khỏe ba cũng yếu rồi. Thôi ba đành chiều con, giao chiếc tàu cho Cần câu cơm của nhà mình đó, gắng mà nuôi các em nghe con!
- Con cảm ơn ba! - Nước mắt tôi đã chảy từ lúc nào.
Ba được đưa vào bệnh viện để kiểm tra sức khỏe. Mẹ và em tôi theo vào viện với ba. Tôi đứng lại nơi bến cảng, nhìn quanh. Niềm vui đoàn tụ chan chứa, nhưng cũng thấm mặn nỗi đau. Bởi lẽ, vẫn còn ba ngư dân nằm lại trong lòng biển cả chưa tìm thấy. Trong số mười chín người được cứu, hai ngư dân đã gục ngã vì kiệt sức, vì lạnh, vì đói...
* *
*
Giờ đây, tôi đã theo nghề biển của ba, trở thành một ngư dân thực thụ của làng chài. Mỗi lần con thuyền rẽ sóng trở về bờ, tôi lại bắt gặp trong mắt mẹ ánh sáng lấp lánh quen thuộc, như ngọn đèn hạnh phúc vẫn thắp lên từ bao năm. Trong tiếng sóng rì rào miên man, trong làn gió biển vờn qua vai, tôi nghe lòng mình ngân rung theo bản nhạc diệu kỳ của đại dương.
Biển, trong trái tim tôi, không chỉ là quê hương, mà còn là sự sống, là hơi thở, là cả cuộc đời. Hai chân tôi - một gắn bó với bờ, một còn mải miết đạp sóng xa xăm. Dẫu đôi khi biển giận dữ, dâng trào sóng lớn, tôi vẫn quyết chí thi gan cùng bão tố, để tiếp tục bám biển, nối dài nghiệp cha ông, giữ hồn cốt làng chài giữa mênh mông sóng gió.
Đ.H.B.T