Nguyễn Nho Nhượn và những lời sương khói
Nguyễn Nho Nhượn (1946-1969)
Mấy mươi năm đọc thơ Nguyễn Nho Nhượn, tôi hình dung ra, đó là một con người gầy, đôi mắt sâu và buồn, một giọng nói đủ nghe và một cái nhìn lặng lẽ, đôi khi như ngơ ngác giữa đời. Nguyễn Nho Nhượn sáng tác cùng thời với Nguyễn Nho Sa Mạc, Đynh Trầm Ca, Hoàng Lộc, Tần Hoài Dạ Vũ, Thành Tôn, Lê Nghiêm Vũ, Lê Đình Phạm Phú,...
Bài Những lời sương khói (Bách Khoa, số 301, ngày 15-7-1969), một phác thảo về chân dung Nguyễn Nho Nhượn, một diễn ngôn về số phận, bơ vơ như một kẻ không nhà, có những câu thơ tiên cảm về cuộc đời:
Với vẻ mặt u hoài trong mộng tưởng
Với thân cao không chống nổi cuộc đời
Với trái tim đã mang nhiều căn bệnh
Tới bây giờ cũng chẳng phải là tôi...
Và người ơi, một mai tôi chết yểu
Xin đừng buồn đừng khóc với khăn tang
Xin người cười như hoa xuân mới nở
Để hồn thơ vĩnh viễn được huy hoàng.
Đây là hồn thơ huy hoàng, song, số phận không mỉm cười và sớm rời bỏ trần thế. Nguyễn Nho Nhượn sinh ngày 12-3-1946, tại thôn Bồng Lai, làng La Qua, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Khởi viết từ năm 1962, đã đăng thơ trên các báo, tạp chí: Bách Khoa, Văn học, Văn, Thời Nay, Phổ thông bán nguyệt san, Nghệ thuật, Giữ thơm quê mẹ,... Nguyễn Nho Nhượn theo học Trung học Nguyễn Duy Hiệu - Điện Bàn, Trần Quý Cáp - Hội An. Vào những tháng cuối năm 1968, Nguyễn Nho Nhượn lâm bệnh nặng, điều trị tại Tổng Y viện Duy Tân (Bệnh viện C 17 bây giờ), rồi chuyển qua Bệnh viện Non Nước và mất tại đó, vào ngày 24-5-1969, khi mới 23 tuổi.
Tác phẩm: Tiếng Nói Giữa Hư Vô, NXB Da Vàng, Đà Nẵng, 1972, do Đynh Trầm Ca và Lê Nghiêm Vũ, bạn thơ của Nguyễn Nho Nhượn in và phát hành. Cạnh đó, Nguyễn Nho Nhượn còn 5 tập thơ khác, chưa xuất bản, đó là: Những lời sương khói, Lời buồn trong tim, Hơi thở miền nhiệt đới, Nỗi buồn mọc cánh và Những khúc ca hoang.
Nguyễn Nho Nhượn, một lữ hành cô đơn, một con chim trong mùa bão loạn, một mình ngồi hát bản tình ca, một mình mang hồn bệnh tật.
- Một tiếng thơ về thân phận
Trong nhiều bài thơ, viết vào tuổi mười tám, đôi mươi, Nguyễn Nho Nhượn đã vẽ nên một chân dung buồn của mình. Đây là một hồn thơ có những cung bậc khắc khoải về cuộc đời, về sự thống khổ của kiếp người. Tha thiết với trần thế, với quê hương, song, trong tâm thức lại luôn cảm thấy đơn côi, lẻ bóng:
Tuổi trẻ lớn chưa tròn khuôn mặt
Nụ cười còn e ấp niềm vui
Anh chợt thấy giữa khung trời
phiêu lãng
Nhìn bướm bay nghe thân phận
bùi ngùi
(Điệu tình thứ nhất)
Thường sinh nhật là ngày vui, ngày chào đời, ngày tưởng nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ. Ngày này, đánh dấu sự có mặt của ta với cuộc đời, ngày đầu tiên tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thiêng liêng đối với mọi người. Vậy mà, chẳng biết nên vui hay buồn vào ngày đầy ý nghĩa này:
- và hôm nay lại đến ngày sinh nhật
chẳng biết nên vui hay nên buồn
- tôi ôm buồn cho đến ngày
nhắm mắt
xin mang theo làm kỷ niệm thiên đàng
(Vết buồn thời đại)
Bài thơ ngũ ngôn có tên Thơ từ bệnh viện, 6 khổ, mô tả một con người dật dờ ngày tháng, lừ đừ vô vọng, mang mang cõi u trầm, một bóng hình tả tơi/ ngày nào không quạnh hiu... Bài thơ có âm hưởng buồn, giọng nói không vui của một người có bệnh. Một thân một mình, cảnh “mỏi lưng giường tội nghiệp” như dày vò cả thể xác lẫn tâm hồn. Bốn câu thơ sau cùng mới bi đát làm sao:
võ vàng nhà thương thí
mùa xuân trơ nhánh cành
ngày không ai thăm viếng
xin cuộc đời lãng quên
Kể cũng lạ, nhà thơ đếm tuổi mình: Tuổi 18: Đi qua từng lối sống/ Với tuổi thơ lăn tròn/ Mười tám vòng vừa khỏi/ Thân hình cũng uốn cong (Xuân và cuộc đời). Tuổi 19: Mười chín mùa xuân đến/ Cũng vẫn như bây giờ (Chuyến về cuối năm). Tuổi 20: Hai mươi tuổi vẫn chưa già/ Em trong gối mộng tôi xa mái trường/ Rồi đi vào bóng mù sương/ Tôi còn có một tình thương vô tình (Lời cuối năm)/ Một thân du tử lạc loài/ Tuổi hai mươi cũng mệt nhoài suy tư (Lời ca du mục - Bỏ rừng). Mấy dòng lục bát hiu quạnh:
bây giờ tôi chẳng là tôi
hồn mang oan trái thân phơi bãi tình
mỏi mòn đếm tuổi điêu linh
cây tương lai vẫn nhánh cành
quạnh hiu
(Bây giờ)
Với Nguyễn Nho Nhượn: Thời gian chỉ được đo lường bằng sự đau khổ (Tiếng động mùa xuân). Những khoảnh khắc sống trong tình cảnh bệnh tật, thể trạng vơi dần theo ngày tháng, nhà thơ cảm nhận thời gian tồn tại trên thế gian này ngắn ngủi, ngậm ngùi, có lúc vụt lóe sáng rồi tắt lịm, nhập nhòa, chập chờn giữa mong manh phù thế và sự vĩnh cửu của thời gian, giọng thơ bi thiết:
Trông chờ từng ngày đến
Mùa xuân nào đi qua
Cho tôi xin ý nghĩa
Để đời bớt xót xa
(Xuân và cuộc đời)
Nguyễn Nho Nhượn cảm nhận tinh tế những mạch chảy của thời gian. Những từ cô độc, hư vô, trống vắng, (như kẻ lữ hành cô độc - Tiếng động mùa xuân), Nhưng hư vô còn trăm vạn nỗi niềm/ Tôi khờ dại nên mãi đành thua lỗ (Bài ca của một người đang sống)/ muôn trùng con nước lênh đênh/ mang thân phận đó qua miền hư vô (Bây giờ)... thường xuyên xuất hiện. Cuối năm, không vui không buồn, nhẩm tính đời mình:
- ngày tàn theo bóng u minh
tôi ngồi đây nhớ phận mình cuối năm
ngày qua tỏa bóng ăn năn
tôi ngồi đây để mùa xuân không về
(Lời cuối năm)
Nguyễn Nho Nhượn hay nói đến mùa xuân. Mùa xuân là mùa đầu tiên của một năm. Mùa xuân đem lại tươi vui, hạnh phúc và sức sống cho con người, cho thiên nhiên vạn vật. Mùa xuân đồng nghĩa với tương lai và sáng tạo. Vậy mà, trong thơ Nguyễn Nho Nhượn, mùa xuân đi về một ngã khác, ngã của đơn côi, lạnh lẽo. Dường như, có cơn gió hư vô thổi từ mùa đông, dừng lại ở mùa xuân, mùa xuân mang vết buồn của thời cuộc: Mùa xuân nào có đến/ Mái tranh vẫn trầm buồn/ Thời gian nào có hết/ Mẹ già vẫn đau thương (Chuyến về cuối năm), Mùa xuân lên sắc lạ/ Ôi bao lần tái tê (Vết buồn thời đại), Mưa đã nhiều, ôi mùa xuân khốn đốn/ Loài chim hiền tìm mãi nắng yêu thương (Tiếng ca mùa đông), Cho quên đi bao niềm chua xót/ Mùa xuân ơi tuổi trẻ biết về đâu? (Tiếng động mùa xuân), Ôi bạn bè từng đứa/ Đem tiêu phí mùa xuân/ Trông chờ từng ngày đến/ Mùa xuân nào đi qua/ Cho tôi xin ý nghĩa/ Để đời bớt xót xa (Xuân và cuộc đời), Ngày qua tỏa bóng ăn năn/ Tôi ngồi đây để mùa xuân không về (Lời cuối năm), Ôi nỗi buồn là đó/ Trên những cánh đồng mùa xuân chỉ còn cỏ khô (Cánh đồng tình yêu),...
Có một điểm không giống với các nhà thơ cùng thời, đó là các bài lục bát mang âm hưởng buồn, buồn đến nao lòng.
Trên tạp chí Văn học, số 42, ra ngày 15-7-1965, có bài Tiếng nói giữa hư vô. Bài thơ được chọn làm tên cho tập thơ, xuất bản năm 1972, tập TIẾNG NÓI GIỮA HƯ VÔ. Bài thơ có 4 khúc thức, viết theo thể lục bát, nói Với tuổi trẻ, Với con người, Với đời sống, Với tình yêu. Bốn cung bậc về khói sương, về thương đau, về con đò đáy sâu, về vòng tay hư vô. Tác giả hóa thân thành con chim đã lạc xa rừng, thành đá sỏi giữa cồn thương đau, thành kẻ van xin cơm áo không cần công danh, thành bước chân hoang dại biết về phương mô. Toàn bài là một tiếng nói, tiếng nói về vô định.
Nằm trong mạch chảy đó, Nhìn, 11 câu thơ lục bát về “tôi nhìn tôi” đến 6 lần. Triết học đã từng bàn về con người khi ra đời đã tồn tại cái tôi. Cái tôi hay ngã kiến - egoismism/ the selfness là tự nhận thức của con người đối với chính mình, phân biệt mình với thế giới bên ngoài và các cá nhân khác. Nguyễn Nho Nhượn đã nhìn mình dưới góc độ ảo ảnh, cô đơn, nhuốm sắc màu âm u, bi ai, nước mắt và cát vùi dấu chân:
tôi nhìn tôi với cô đơn
biển vang sóng gọi nỗi hờn nghìn thu
tôi nhìn tôi với sa mù
một thân mệt mỏi âm u lối đời
tôi nhìn tôi với tương lai
vọng đầy ảo ảnh bước dài hoang liêu
tôi nhìn tôi với tình yêu
cho vay nước mắt mượn nhiều
niềm vui
tôi nhìn tôi với bùi ngùi
lênh đênh lối gió cát vùi dấu chân
tôi nhìn tôi với phân vân.
(Nhìn)
Tiếng động mùa xuân (Giữ thơm quê mẹ, số 11, tháng 5 năm 1966) là một bản tự thuật về bản thân, quê hương. Viết năm 20 tuổi (1966). Ba năm sau, cũng vào tháng 5, Nguyễn Nho Nhượn qua đời, mất ngày 24-5-1969. Nhà thơ đã viết về thời gian và sự đau khổ của mình với những câu thơ day dứt:
Mày cũng vẫn tấm thân tàn ma dại
Sáng Hội An, chiều Vĩnh Điện dật dờ
Năm ba chữ không làm nên sự nghiệp
Đôi mắt nhìn chưa hết vẻ ngây thơ
Nguyễn Nho Nhượn ví mình như cái cây, cành lá mỏi mòn, tiêu hao, cả đến hơi thở, vũ trụ mông mênh, phương trời vô định, nhà cao đường rộng đời tôi nơi nào:
- Thở mòn từng nhịp tiêu hao
Đèn xanh đèn đỏ thôi chào
nghe Thuyên.
(Ngày Sài Gòn cô độc)
- Trơ sỏi đá giữa hư vô cát lở
Hoa cỏ sầu em khắc khổ dung nhan...
Sương gió làm mòn thân du mục
Và bây giờ thấy vũ trụ mông mênh...
Còn vẻ đẹp trong phương trời vô định
Trăng sao đầy thần thoại kiếp bơ vơ
Anh đuổi bắt tình yêu không suy tính
Nên ngàn năm em vẫn nét sầu thơ
(Nét sầu thơ)
Có lúc nhà thơ cảm nhận cuộc đời như sân khấu, bản thân là vai tuồng, một vai tuồng nông nổi, dậm chân tại chỗ; đóng vai người ăn mày, đi hành khất tình thương, bị người đời ruồng rẫy; vai thi sĩ bị người mỉa mai; vai nhà ảo thuật bị người trục xuất; đóng vai một triết gia, lại bị người ó la, vai thằng hề, diễn trò vô lối, lại được người hoan hô; cuối cùng, một dấu hỏi treo lơ lửng giữa cuộc đời:
chừ đóng vai gì nữa
cho được người hoan hô?
(Vai tuồng)
Điệu tình thứ nhất là bài thơ phảng phất âm điệu ngùi thương, nghĩ mình là một ánh sao rơi, thấy tuổi trẻ rụng dần, mất dần:
tuổi trẻ lớn chưa tròn khuôn mặt
nụ cười còn e ấp niềm vui
anh chợt thấy giữa khung trời
phiêu lãng
nhìn bướm bay nghe thân phận
bùi ngùi
chút hạnh phúc theo niềm thương
xuất hiện
anh trở về tìm lại ánh sao rơi
anh thấy rõ từng ngày xanh đã mất
dáng em về như dáng mùa đông
Từ nhân vật trữ tình trong các bài thơ, Nguyễn Nho Nhượn gửi cho người đọc một thông điệp về trái-tim-thơ: tôi ôm buồn cho đến ngày nhắm mắt (Vết buồn thời đại).
- Một trái tim yêu quê hương
Điều dễ thấy, trong thơ Nguyễn Nho Nhượn, những sự vật bé nhỏ, tội nghiệp ở nơi làng quê, ruộng đồng, phố thị, cơ cực, nghèo khó, bần hàn, tất cả trở thành nỗi niềm khôn nguôi nơi tâm hồn nhà thơ.
Người con quê hương, bài thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa, số 186, ngày 1-10-1964, trước trận lũ lịch sử năm Giáp Thìn ở xứ Quảng (9-11-1964), còn mang: Đồng lúa xanh, nương dâu, rẫy sắn/ Dâng niềm vui trang trải với xóm làng/ khi vụ mùa rộn rịp chuyện nông tang/ Bởi dòng sông Thu mang phù sa hiều dịu/ tưới quê hương như sữa mẹ ngọt ngào và tình yêu của thi sĩ:
Bởi quê hương này quý hơn thân xác
Bao hình hài ngã gục đắp tương lai
Trong trận chiến tôi là người yêu nước
Trong đau thương tôi là kẻ bất tài!
Rồi, cảnh quê hương không còn như ngày cũ. Rừng xanh đỏ một chiều trơ trụi hết/ Tôi ngại ngùng cất tiếng hát vu vơ (Vết buồn thời đại). Kể từ đây, một nỗi nghẹn ngào dâng lên trong nhiều bài thơ. Hình ảnh một đám tang qua thành phố trong thời buổi chiến tranh với bao nét buồn. Cảnh nhà cửa đổ nát, những hàng cây gục đầu như cúi lạy, khói hương mờ trong mưa phùn, không người thân thích kẻ thích, gã kéo xe mệt lã, thương cho một linh hồn vô danh:
nhà hai bên đổ nát
còn trơ dáng xương gầy
cây gục đầu cúi lạy
bụi mờ làm khói hương
mưa phùn làm nước mắt
khóc cho người tha phương
đám tang qua thành phố
có một người như điên
không ai là thân thích
thương linh hồn vô danh
đám tang qua thành phố
tất cả đều im lìm
gã kéo xe mệt lã
cổ quan tài rung rinh
(Đám tang qua thành phố)
Sống giữa quê hương mà nhà thơ ngỡ như mình lạc lõng, xa lạ, bơ vơ, “tên tôi đó không ai buồn muốn gọi/ thơ tôi đây cũng vô nghĩa như đời”:
Đã lạc mất hồn thơ trên đất mẹ
Bơ vơ như một kẻ không nhà
Trông tìm trong đồng xanh mái rạ
Chỉ còn trơ dấu đạn xót xa
Tầm tay với cũng xa vời thực tại
Con chim xuân mang tiếng hót về rừng
Tôi ở lại áo cơm rách nát
Hơi thở nặng nề tuổi trẻ còng lưng
(Những lời sương khói)
Và, có lẽ, cho đến bây giờ, Khi trở về Vĩnh Điện của Nguyễn Nho Nhượn, ra đời hơn nửa thế kỷ, vẫn là bài thơ hay nhất viết về cái thị trấn nhỏ bé trong những ngày lửa đạn của chiến tranh. Một bài thơ ngắn, 24 câu, mô tả 1ngày trở về thị trấn của tuổi thơ, nơi có căn nhà xưa, những người thân yêu, mái trường xưa, cái quán cũ, lòng phố âm u, lũy tre xơ xác, dáng ai ngập ngừng sau khung cửa, người mẹ gượng vui, con phố buồn ngủ gục,... Những hình ảnh đó không che không khí thời chiến, những buổi chiều vọng âm tiếng súng, nỗi kinh hoàng thất thủ trong trái tim người trở về.
Bài thơ có nhiều từ láy chỉ sắc thái tình cảm: trơ vơ, ngập ngừng, tái tê, bỡ ngỡ, xơ xác, hắt hiu, xót xa. Chất ngậm ngùi, thương cảm, thương mình và thương cuộc sống. Cảnh yên bình cũ đã mất. Người đọc dễ nhận ra nỗi bơ vơ của một tâm hồn nhạy cảm trước một quê hương không còn soi thấu được ngày mai. Các dòng thơ như nghẹn ngào, sau mỗi lần trở lại, trở về, nỗi mất mát thêm lên:
Khi trở lại thấy tường xiêu ngói đổ
Nền trơ vơ đón đợi bước chân về
Khi trở về con đường cây lá rụng
Quán ngày xưa ôi bè bạn đâu rồi
Khi trở về thấy ngại ngùng cuộc sống
Nỗi ưu tư cửa đóng với then cài...
Trên tạp chí Văn học, số 31, tháng 1-1965, Nguyễn Nho Nhượn có bài thơ Chuyến về cuối năm. Bao giờ cũng vậy, những chuyến xe giáp tết thường vui, hạnh phúc và đầy ắp yêu thương, nhưng không, một nỗi lo âu, trĩu nặng. Nhịp điệu các câu thơ năm chữ như chiếc xe già, lặng lẽ kéo nỗi buồn cuối năm đi qua các con đường dài trước mặt/ với kẻ lạ người qua/ người tài xế im lặng/ với một vẻ xót xa/ quê hương mù khói lửa...
Những thao thức về hiện trạng xã hội luôn là những đốm lửa cháy lên trong tâm hồn nhà thơ. Nói với quê hương, bài thơ thể hiện tình cảm của nhà thơ trẻ với quê hương đất nước. Lời tâm sự của người con với cha mẹ về sự lạc loài của số phận. Chiến tranh, tang thương, chiếc cầu bắc qua dòng sông đã gãy đổ, như nhát dao chém vào tuổi trẻ, chém vào ước mơ:
con từ đó bước chân đầy lưu lạc
quê hương đâu ôi là những đường mòn
gió đổi hướng như bao lần biển động
thuyền đã trôi phiêu bạt mấy bến bờ
cha đã bảo tại sao con khờ khạo
mẹ thường lo con ốm yếu thân gầy
đường thiên lý thân ngựa gầy
kham khổ
vết xe tang đành ghi dấu tháng ngày
Cách nắm bắt hiện thực từ nhiều góc độ, tinh tế, đằm thắm, góp phần làm nên nét khác biệt của thi sĩ khi viết những dòng thơ chân thành, giãi bày tâm trạng đau đáu về quê nhà yêu dấu.
- Và, tình yêu
Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn chương, một nguồn cảm hứng bất tận cho các nghệ sĩ. Hương sắc cuộc sống giống như hương sắc tình yêu, có vui tươi và hạnh phúc, có khổ đau và cay đắng. Những câu thơ về tình yêu thường phản ánh rõ nhất trạng thái tâm lý, tình cảm của con người. Thơ Nguyễn Nho Nhượn cũng vậy. Ở thơ Nguyễn Nho Nhượn, vẫn thấy những cảm xúc hồn nhiên và rung động đầu đời trong những bài thơ tình yêu. Tình yêu có muôn hình vạn trạng và nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.
xin sắp lại những cảm tình nát vụn
cùng dư hương ngày tháng cũ
phôi phai
trang nhật ký thêm những lần ghi dấu
lời hôm nay từng nét chữ rưng buồn
(Cảm nghĩ)
Có bài thơ mang âm hưởng trẻ trung, yêu đời, đó là bài Nói với mùa xuân, đăng trên tạp chí Văn học, số 53, ngày 1-1-1966, một bài ngũ ngôn mang “thông điệp của tuổi trẻ/ gởi theo cùng gió mây/ xin loài chim cứ hót/ bài ca của đất trời/ xin loài hoa cứ nở/ cho đẹp những nụ cười/ mùa xuân xin cứ đến/ tôi ngồi đây đón chờ/ nắng có dù thiêu đốt/ tôi vẫn còn làm thơ/ tiếng ai ngoài lối gió/ nói thầm với tình yêu/ tôi sẽ chào mùa xuân/ bằng lời thơ đẹp nhất/ vang từ mái nhà tranh/ với bao niềm chân thật/ mùa xuân, mùa xuân ơi!
Một bài thơ trong trẻo. Một tình yêu chân thành. Một tiếng nói chân thật. Đây là nét riêng trong những bài thơ viết về mùa xuân và tình yêu. Song, nét chung là, với Nguyễn Nho Nhượn, tình yêu được nhìn, được gọi, được viết dưới tâm trạng: vòng tay ôm chặt hư vô/ mà nghe tình ái đi vào cô đơn (Với tình yêu), anh đuổi bắt tình yêu không suy tính/ nên ngàn năm em vẫn nét sầu thơ (Âm điệu tình yêu), hay nỗi niềm:
Tình yêu rồi chợt thức
Bằng hơi thở u hoài
Bằng dáng người con gái
Với nỗi buồn tương lai
Trông chờ từng ngày đến
Mùa xuân nào đi qua
Cho tôi xin ý nghĩa
Để đời bớt xót xa.
(Xuân và cuộc đời)
Những ngày mưa buồn không
muốn học
Vĩnh Điện u trầm rợn nét rêu phong
Anh thấy rõ từng ngày xanh đã mất
Dáng em về như dáng mùa đông
(Điệu tình thứ nhất)
Một lần khác, trên tạp chí Bách Khoa, số 192, ngày 1-1-1965, bài Vết buồn thời đại, viết lúc 20 tuổi, đầy “bâng khuâng bước qua vùng tuổi nhỏ”, với trạng thái: Tôi hoang mang với tình yêu khôn lớn/ Nghĩ lại mình - vốn liếng mấy bài thơ/ ngại ngùng cất tiếng hát vu vơ/ nên vui hay nên buồn:
Người yêu ơi vàng son hay sỏi đá
Quê hương ơi tủi nhục hay vinh quang
Tôi ôm buồn cho đến ngày nhắm mắt
Xin mang theo làm kỷ niệm thiên đàng.
Cánh đồng tình yêu vào mùa xuân ít có hoa thơm và cỏ lạ, ít nghe tiếng chim hót giữa trời xanh, chỉ thấy Ôi nỗi buồn ở đó/ Trên những cánh đồng mùa xuân chỉ còn cỏ khô (Cánh đồng tình yêu). Từ đâu dẫn đến cái nhìn này, đó là: chiến tranh cất lời ca hát/ bằng vết thương trong tim mọi người.
Tiếng ca mùa đông viết năm 19 tuổi, đăng trên tạp chí Văn, số 25, ngày
1-1-1965, là bài thơ viết cho một người con gái, với cung bậc của nỗi buồn không tên, bé nhỏ. Mùa đông, không có giông tố, vẫn là tiếng ca mang dự cảm về nỗi đơn côi và khắc khoải, lặng lẽ đi tìm hạnh phúc, dõi theo một hình sương bóng khói. Một trái tim cuồng nhiệt. Một nỗi đau ngọt ngào, chân cảm: còn gì không em trong nỗi buồn bé nhỏ/ từng đợt mây trời nối tiếp rủ nhau đi/gió mùa đông về bao phủ kinh kỳ/ em có thấy mặt trời xưa tan vỡ/ anh đứng lại nghe tâm hồn bỡ ngỡ/ loài cây buồn cúi mặt bỗng reo vang/ rồi những hoàng hôn mang nhiều tha thiết/ anh một mình ngồi hát bản tình ca/ bao dư âm bay theo gió chan hòa/ đành ôm mặt nghe vô vàn quyến luyến/ ngày đi qua bằng cơn mưa hiện diện/ em có còn xõa tóc nhớ thương anh?/ con đường xưa xác lá đổ tan tành/ thành phố cũ cũng mang hồn bệnh tật...
Và, lời cầu xin:
Anh vẫn xin vẫn xin tuổi trẻ đừng tàn
Còn gì không em trong mùa đông đó?
Hay như bài Cảm nghĩ, màu áo phai hạnh phúc, tình đi không quay lại, rưng buồn, chỉ còn dư hương ngày tháng cũ phôi pha:
Còn lại nửa cuộc đời phong kín
Giữa màu xanh xin cúi vác đau thương
Niềm dung ái theo về nhung nhớ
Màu áo phai hạnh phúc mơ hồ
Còn trông gì khi mây bay theo gió
Tình đi xa không quay lại bao giờ
(Cảm nghĩ)
Qua thơ và đời, ta cảm nhận được ở Nguyễn Nho Nhượn một hồn thơ của những khắc khoải, cô đơn về kiếp người, những nỗi niềm của một người trẻ lớn lên trong khung cảnh chiến tranh, mong ước thanh bình.
Như một câu thơ trong bài Tiếng động mùa xuân, Nguyễn Nho Nhượn là “kẻ lữ hành cô đơn”, rót nỗi buồn nhân thế vào chiếc cốc trần gian, giữa khung trời phiêu lãng của đời mình.
H.V.H