Làng bên sông Cổ Cò
Cầu Biện bắc qua sông Cổ Cò
Theo các bậc cao niên trong làng, tên gọi Hà My, được hiểu là cái doi đất bên sông (hà: sông; my: doi, nổng đất). Còn tên gọi Cổ Cò (còn gọi là Lộ Cảnh giang), có lẽ là do con sông uốn lượn từ Đà Nẵng vào cửa Đại, Hội An hình dáng như cái cổ của con Cò chăng? Tên đất, tên làng mang “dáng sông, hình đất” ấy đã trở nên gần gũi, thân quen không chỉ là con dân làng Hà My mà của rất nhiều người khác xứ khi tìm về ngôi làng bên sông Cổ Cò huyền thoại và đầy trầm tích này.
Chuyện trong sử sách
Theo gia phả tộc Nguyễn làng Hà My, khoảng năm 1480, làng có 17 vị thủy tổ tiền hiền gồm: Văn Công Tiên, Nguyễn Thế Lực, Trần Văn Bản, Nguyễn Văn Minh, Phạm Văn Quang, Phạm Văn Sử, Lê Doãn Khánh, Lê Công Lương, Nguyễn Phước An, Nguyễn Văn Tài, Đỗ Văn Tri, Cao Đăng Hiếp, Trần Ngãi Núc, Nguyễn Núc, Bùi Thanh Dân, Lê Đài, Phạm Quang Huy, từ các tỉnh Hải Dương, Vĩnh Phú, Thanh Hóa, Nghệ An vào đây lập nghiệp. Khoảng năm 1500, một đoàn di dân khác từ phía Bắc vào Hà My, gồm các vị: Nguyễn Văn Dưỡng, Trần Văn Có, Đinh Văn Lâu, Nguyễn Văn Lân, Trương Văn Chiến, Trần Phước Rồng, Trần Duy Đức, Phan Bá Điển, Trần Văn Tuấn, Võ Đình Thắng. Hà My buổi sơ khai có tên xứ Hà Tôm, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa, Quảng Nam thừa tuyên đạo. Năm 1820, vua Minh Mạng đổi tên xứ Hà Tôm thành xã hiệu Hà My, tổng Phú Triêm, phủ Điện Bàn, trấn Quảng Nam. Theo đó, tên xóm của làng Hà My cũng được hình thành: xóm Trung, xóm Tây, xóm Đông, xóm Trảng Cát, Gò Nông, Sa Khê, Văn Kinh, Thăng Liên, xóm Huế, xóm Nò, xóm Lờ. Dân làng tiến hành khai hoang vỡ hóa nhiều cánh đồng màu mỡ, như: Hà Thại, Hà Lầy, Đập Ông, Bờ Mới, Trảng Hớn, Trảng Sĩ, Trảng Thiều, kinh Thủy Kỳ, Cây Duối, Hà Chang, Bảy Rẫy, Khe Trong, Trảng Cỏ, Bồ Đề, Khúc Giá, Sông Trên. Ngoài biển ngang có Lăng Ông, bến Trên, bến Dưới. Trong sông Hà Sấu có bến Tàu xóm Hải Chữ, Cồn Đội để thuyền các nơi giao lưu, buôn bán, và là nơi tránh bão của ngư dân trong mùa mưa lũ.
Làng Hà My có miếu xóm Trung, xóm Tây, xóm Đông, Văn Kinh, Thăng Liên, Hải Chữ, Trảng Cát, Gò Nông, Vạn Hà My, phổ Đồng Chè, phổ Ông Thêm, miếu Ông Phú, miếu Ông Trị, miếu Phổ Long, miếu Bồ Đề, miếu xóm Sa Khê, đình làng Hà My. Đặc biệt, tại rừng Hà My có chùa Phật giáo Bửu Long. Bên bờ hữu ngạn sông Hà Sấu có miếu thờ thần Long Vương, có lăng Bà thờ thần cá Sấu. Để chống ngập mặn, dân làng Hà My đắp con đập bờ Thanh niên, bờ Phụ nữ, đập Ông Sắc. Làng còn có cầu Xã Nhi, cầu Ông Điền và cầu Nghĩa Tự, có rừng dừa nước rậm rạp quanh năm che phủ.
Trong phong trào Nghĩa hội Quảng Nam của chí sĩ Nguyễn Duy Hiệu, ở làng Hà My có ông Nguyễn Hữu Bành (thường gọi ông Bếp Bành) thông minh, văn võ song toàn, là người thân cận của cụ Hường Hiệu. Khi nghĩa hội tan rã, ông đã bị giặc truy sát và chém đầu ở Cây Trâm, huyện Thăng Bình. Làng Hà My còn có nhiều người tài cao học rộng, văn hay chữ tốt. Giai thoại còn truyền chuyện thầy Thuần, được triều đình Huế mời ra chữa bệnh cho vua; thầy Ba Phụng có thể bắt ấn qua sông; thầy Thận mệnh danh “thần y” bốc thuốc cứu nhiều người; thầy Nghê mở trường dạy học, đào tạo nên nhiều học trò tài giỏi; thầy phó Dục văn hay chữ tốt; có vị đô đốc Ngữ, đô đốc Tâm và nhiều người nổi tiếng một thời như xã Nhúm, xã Giêng, xã Nhạc, xã Chất...
Làng kháng chiến
Tại làng Hà My, chi bộ đảng được thành lập khá sớm. Năm 1948, Đại hội Đảng bộ xã Điện Dương lần thứ nhất tại nhà bà Chương. Tháng 4-1952, Đại hội lần thứ 2 của Đảng bộ xã Điện Dương tổ chức tại đình làng Hà My. Đình làng Hà My ngày ấy có cây đa, giếng nước, sân đình, có ruộng đồng bốn bề che chở, có cây sợp tán lá che phủ một khoảng trời. Bộng cây sợp rỗng ở ruột có thể chứa một tiểu đội, là vọng đài cao để quan sát theo dõi địch đi càn. Năm 1966, giặc Mỹ ra sức bắn phá, cày ủi, hủy diệt nhằm biến Điện Dương thành vành đai trắng, đem quân chư hầu lữ đoàn Rồng Xanh Đại Hàn đến ém quân tại Hà My. Chúng xây dựng nơi đây 2 sân bay chiến lược, ra sức tàn sát đồng bào. Năm 1968, máu xương của hàng trăm người dân vô tội đã đổ xuống. Trong một buổi sáng sớm, bọn lính Rồng Xanh Đại Hàn ra tay tàn sát 24 người dân đang đi làm nghề chài lưới ở bến Ông Đậu. Ngày 24-2- 1968, chúng càn quét xóm làng, tập trung 135 người dân Hà My Tây vào nhà thờ rồi nã súng sát hại, trong đó đa số là người già, phụ nữ và trẻ em. Qua 2 cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, Hà My là một trong những làng có số liệt sĩ, thương bệnh binh, Bà mẹ Việt Nam anh hùng nhiều nhất xã. Điển hình, xóm Tây có 64 liệt sĩ, hàng chục thương binh, 9 Bà mẹ Việt Nam anh hùng; riêng gia đình ông Nguyễn Điểu có 11 liệt sĩ. Nhiều tấm gương tiêu biểu khác như liệt sĩ Văn Thanh Tùng, Văn Quyền, Đinh Chúng, Nguyễn Sâm… cũng từ mảnh đất này lớn lên, đóng góp công sức, máu xương cho cách mạng.
Đổi thay bên sông Cổ Cò
Sau năm 1975, bà con làng Hà My trở về quê, tháo gỡ bom mìn, khai hoang vỡ hóa, cải tạo đồng ruộng, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục sản xuất, xây dựng quê hương trên hoang tàn đổ nát. Diện mạo làng Hà My đã từng ngày thay da đổi thịt; nhất là Điện Dương trở thành phường vào năm 2015 cho đến nay. Làng Hà My bây giờ đã là 4 khối phố: Hà My Đông A, Hà My Đông B, Hà Trung và Hà My Tây. Ngày nay, ngoài nông - ngư nghiệp, người dân đã mở mang nhiều ngành nghề như thương mại, dịch vụ du lịch, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp… Ở Hà My bây giờ, hàng loạt dự án khu đô thị, biệt thự nhà vườn, resort bên biển Hà My đã và đang mọc lên; cầu Nguyễn Duy Hiệu (cầu Ông Điền) đã hoàn thành đưa vào sử dụng và cầu Nghĩa Tự đang được xây dựng mới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của Hà My. Đời sống của đại bộ phận nhân dân đã cải thiện đáng kể. Năm 2011, bà con trong làng đã khôi phục đình làng Hà My làm nơi thờ tự, ghi nhớ công ơn các vị tiền nhân. Tiếc rằng, đình làng Hà My, nơi tổ chức Đại hội Đảng bộ xã Điện Dương lần thứ 2 vào tháng 4-1952, đến nay vẫn chưa được địa phương tiến hành làm hồ sơ công nhận là di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh.
D.H