Vinh dự từng là chiến sỹ QĐND của Đại tướng - Trần Trung Sáng

18.12.2013

Vinh dự từng là chiến sỹ QĐND của Đại tướng - Trần Trung Sáng

     Vào ngày 12.10.2013, không chỉ trên đất nước Việt Nam, mà tận đất nước Hy Lạp xa xôi, tại cơ quan Đại sứ quán Việt Nam nơi đây cũng đã tổ chức Lễ Quốc tang, treo cờ rủ, lập bàn thờ và mở sổ tang với sự tham dự đông đảo đại diện các cơ quan, tổ chức, cá nhân cộng đồng người Việt Nam tại Hy Lạp cùng bạn bè quốc tế đến viếng, thể hiện lòng kính trọng sâu sắc đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tình cảm đối với nhân dân Việt Nam. Một trong những vị khách đầu tiên tại thủ đô Athens Hy Lạp đến kính viếng Đại tướng, không thể không nhắc đến ông Nguyễn Văn Lập (Kostas Sarantidis), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, Chủ tịch Danh dự Hội Hữu nghị Hy Lạp - Việt Nam.

   Trong sổ tang viếng Đại tướng, ông Lập viết:“Vinh dự từng là chiến sĩ  QĐND của Đại tướng”

 


     Từ tháng 8/1945, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, khi ấy Kostas Sarantidis mới 17 tuổi, bị bắt đi lao động khổ sai ở Đức vì buôn lậu thuốc lá, sau đó sang Italia, và kẹt lại ở đó vì đất nước Hy Lạp còn trong nội chiến. Ông cùng một người bạn đành ghi danh vào đội lính lê dương Pháp, rồi bị đưa lên tàu biển đến Sài Gòn, với ý nghĩa để diệt phát - xít Nhật.

    Thế nhưng, ngay những ngày đầu đến Việt Nam, Kostas đã chứng kiến nhiều hành động tàn ác của quân Pháp đối với người dân bản xứ, khiến ông nảy sinh ý định đào ngũ sang phe Việt Minh. Người đầu tiên ông gặp gỡ là vợ một viên chức sứ quán Pháp, tên là Mai Lê, dẫn giải cho ông giác ngộ, nhận ra, mình đã bị lừa, là đến đây để đánh nhau với Việt Minh - những người cách mạng đang thực hiện lý tưởng cao đẹp, quyết giành lại độc lập, tự do cho đất nước Việt Nam. Không lâu sau đó, vào ngày 4/6/1946, ông cùng người bạn Tây Ban Nha tên là Santo Merinos đào ngũ trốn theo Việt Minh. Cùng lúc, họ cũng giải thoát cho 25 tù binh khác, mang theo một súng máy cùng 2 khẩu súng trường. Sau 2 ngày lên núi, họ gặp bộ đội liên khu V chào đón. Kostas Sarantidis chính thức trở thành bộ đội Việt Nam - Trung đoàn 812 đóng tại Bình Thuận. Cái tên Nguyễn Văn Lập cũng ra đời từ đó.

   Trong hồi ký “Tại sao tôi theo Việt Minh”, Kostas giải thích, tên này là sự kết hợp của họ Nguyễn, theo Nguyễn Ái Quốc, Văn là văn hóa, Lập là lập nên, xây dựng, lập lại. Còn bạn ông - Santo Merinos cũng đổi tên  là Nguyễn Văn Vỹ (sau này hy sinh ở chiến trường Lào năm 1951).Trong gần 10 năm tham gia quân ngũ, Kostas từng trải qua nhiều trận đánh quan trọng. Ngày 13 tháng 4 năm 1948, đơn vị ông chống càn tại Hương An - Bà Rén, tiêu diệt 200 quân đối phương. Vào tháng 11/1948, ông là người đầu tiên bắn rơi máy bay của Pháp tại Quảng Nam. Ông cũng từng làm tổng giám thị trại tù binh Âu Phi số 3 ở Quảng Ngãi. Tháng 6/1950, Kostas được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay tại Trung đoàn 803 ở Tuy Hòa, Phú Yên. Theo ông, điều quan trọng nhất là “Tôi đã học được những phẩm chất tốt đẹp của người lính Cụ Hồ, coi nhau như anh em ruột, cùng ăn một mâm, ngủ một chiếu...”. Ông kể rằng trong kháng chiến 1, năm đầu ở Việt Nam, vì phong tục tập quán của Việt Nam cộng với kỷ luật quân đội dẫn đến việc trai gái hạn chế tuyệt đối, chúng tôi không được tiếp xúc, thậm chí bắt tay phụ nữ. Nhưng dần dần cũng có sự thay đổi.

     Thời gian ở tại đơn vị, Kostas được phép lập gia đình, vợ là Huỳnh Thị Sơn, quê huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi), song không có con. Năm 1954, hòa bình lập lại, hai vợ chồng tập kết ra Bắc, ông vẫn trong quân ngũ, còn vợ vào phụ trách một nông trường ở Thanh Hoá. Tuy nhiên, do một số lý do khách quan, ông và bà Sơn chia tay.

   Năm 1956, ông về phục viên, đi làm lái xe cho Bộ Giao thông Vận tải. Khi Nhà in Tiến Bộ cần phiên dịch tiếng Đức, ông lại chuyển sang đây công tác, đồng thời làm cho xưởng phim và thỉnh thoảng còn được hãng phim truyện mời đi đóng phim, các vai Pháp, Mỹ trong một số bộ phim truyện Việt Nam. Thời gian này, ông phải lòng một thiếu nữ Hà thành chính gốc tên Đỗ Thị Chung, xinh đẹp, nết na, mồ côi từ nhỏ, nhà ở ngay phố Lò Đúc. Họ thành hôn và vợ ông đã sinh liền cho ông 3 người con. Năm 1965, sau gần 20 năm sống ở Việt Nam, ông làm đơn xin hồi hương về Hy Lạp.

     Ông cho biết: "Khi tôi hoàn thành nhiệm vụ trên tinh thần Quốc tế rồi thì phải về chứ, sống mãi ở Việt Nam sao được. Tôi cũng có quê hương, có bố mẹ, có gia đình”. Dù vậy, ông nói thêm: “Trải qua quãng đời trẻ trung, sôi nổi, rất có ý nghĩa ở Việt Nam, tôi đã gắn bó với đất nước này, tôi không nghĩ đến việc rời Việt Nam, dù cuộc sống còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhưng điều day dứt nhất đối với tôi là hơn 15 năm xa gia đình, tôi không được tin tức gì của mẹ. Năm 1954, tôi nhờ một tù binh trở về cố quốc chuyển giúp bức thư đến mẹ tôi, cuối năm, tôi mới nhận được thư trả lời của em gái. Tôi đọc suốt mười ngày, cứ giở ra là khóc. Mẹ tôi đã mặc áo đen và dặn tôi trở về vuốt mắt cho mẹ…”.

     Sau khi giải quyết giấy tờ, trở lại quốc tịch Hy Lạp, tại Hy Lạp cũng vất vả không kém, dù vậy, ông quyết tâm bươn chải mỗi ngày để nuôi vợ con. Ông Lập cho biết: “4 người con của tôi cũng đều  được đặt bằng tên Việt Nam: Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Thị Thuyết, Nguyễn Thị Bạch Nga và Nguyễn Tự Do. Các cháu tôi cũng vậy: Nguyễn Phục Sinh, Nguyễn Hồ Minh… Chúng nó rất ngoan, hiền, đi đâu cũng được quý. Hai đứa là giáo viên, trong đó một đứa dạy môn lịch sử Hy Lạp. Tôi tự hào vì chúng là người Việt Nam dạy lịch sử Hy Lạp. Hòm thư báo trước cổng nhà tôi trên đường phố Rodos ở thành phố Athens vẫn ghi cả hai cái tên Việt Nam và Hy Lạp: Kostas Sarantidis Nguyễn Văn Lập”.

     Năm 2005, nhân kỉ niệm 60 năm Quốc khánh nước, chính phủ Việt Nam đã mời hai vợ chồng ông về dự và đi thăm Điện Biên. Nhiều lần khác, ông trở lại Việt Nam thăm lại chiến trường xưa Quảng Ngãi, thăm đồng đội và đồng bào các tỉnh miền Trung, dự Đại hội Liên hoan chiến sĩ thi đua toàn quốc. Có lần, ông tháp tùng Tổng thống Hy Lạp sang thăm Việt Nam. Ông cũng từng được các nhà lãnh đạo Việt Nam: Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Minh Triết... tiếp thân mật. Ông cũng được chính phủ Việt Nam tặng nhiều huân, huy chương như: Huân chương kháng chiến, Huân chương chiến công, Huy hiệu cựu chiến binh Việt Nam, Kỷ niệm chương Trung đoàn 812 anh hùng, Huân chương Hữu nghị.  Ngày 9/11/2010, ông được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết trao quyết định công nhận là công dân Việt Nam. Tháng 5/2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã ký quyết định số 934-QĐ/CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân cho ông. Lễ trao tặng mới được tổ chức trọng thể tại Bộ Quốc phòng Việt Nam vào ngày 30/8 vừa qua.

    Kể lại những kỷ niệm đáng nhớ của mình, khi còn là người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông Lập nói rằng, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông đã "2 lần xin vào Nam nhưng chi bộ không cho. Các đồng chí bảo đồng chí Lập chiến đấu như thế là đủ rồi. Tôi không trực tiếp chiến đấu. Nhưng kháng chiến không có nghĩa là chỉ cầm súng. Người cầm súng phải ăn. Người nuôi ăn là kháng chiến. Người sản xuất cũng là kháng chiến. Vì thế, ngoài 8 giờ làm việc, chúng tôi còn làm thêm 4 giờ mỗi ngày không công cho miền Nam".

    Sau hơn 50 năm trở về Hy Lạp, chưa bao giờ ông  Lập cắt đứt liên lạc với bạn bè tại  Việt Nam. Bình quân, vài năm một lần, gia đình ông trở lại Việt Nam thăm quê ngoại, gặp những người bạn tri âm. Mỗi lần về Việt Nam ông đều kêu gọi cộng đồng người Việt Nam ở Hy Lạp ủng hộ đồng bào bị bão lụt, Quỹ nạn nhân chất độc da cam… Tất cả tiền bán sách ở Việt Nam và Hy Lạp, tiền tiết kiệm được ông đều dành để về Việt Nam ủng hộ Quỹ nạn nhân chất độc da cam ở nhiều nơi... Năm 2001, ông được nhận trợ cấp dành cho những người có công với cách mạng. Ông đã nhờ bạn bè làm thủ tục tặng hết cho các mẹ liệt sĩ ở Quảng Nam.

          Đặc biệt, với thành phố Đà Nẵng, sau khi bắt được liên lạc với Ban liên lạc Trung đoàn 803,  trong năm 2005, Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập đã trở lại nơi này, được Đại tá Lâm Quang Minh, Đại tá Võ Văn Minh ra tận sân bay đón tiếp ân cần, như  người đồng chí một thời cùng chung chiến hào. Tháng 8/2011, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân chính thức phát hành cuốn sách mang tên: Chiến sĩ Quốc tế - Bộ đội Cụ Hồ: Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập. Cuốn sách gồm 3 phần. Hai phần đầu là hai tập hồi ký Tại sao tôi theo Việt Minh Ở một trại tù binh Nam Việt Nam của ông Kostas, viết để tưởng nhớ lại những năm tháng chiến tranh tại Việt Nam, tưởng nhớ đến những người bạn, những con người đã hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vừa là tôn vinh cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc ta, ca ngợi sự khoan hồng, nhân đạo của quân đội ta đối với những tù binh bị bắt… Phần ba là Câu chuyện nghĩa tình về cảm nhận của đồng đội, bạn bè ông sau bao năm xa cách. Sau khi xuất bản, ông tự mình đi vận động Việt kiều, người thân và bạn bè Hy Lạp mua sách, rồi dành toàn bộ số tiền thu được đem về giúp trẻ em bị chất độc da cam cũng như hỗ trợ một số cựu chiến binh và cựu thanh niên xung phong ở thành phố Đà Nẵng. Hiện tại, ông vẫn ấp ủ cho ra một cuốn hồi ký nữa về Việt Nam để có thêm kinh phí giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn tại “quê hương thứ hai” của mình.

      Ông nói: "50 năm sống tại Hy Lạp rồi, nhưng tôi vẫn tự thấy mình là người Việt 80%, cách sống vẫn là người Việt Nam, cách nghĩ bằng tiếng Việt trước, tiếng Hy Lạp sau. Tôi còn có khả năng viết văn, viết hồi ký bằng tiếng Việt Nam. Trông mặt mũi tôi nhiều người cũng bảo tôi là người Việt Nam. Vì tôi đã ăn cơm Việt Nam, nước mắm Việt Nam, thịt chó Việt Nam. Tên tôi vẫn là Nguyễn Văn Lập, không có gì thay đổi cả. Cả đất nước Việt Nam này đều là bạn của tôi, những người là lạ gặp nói chuyện một tí cũng là bạn".



                                                              T.T.S

Bài viết khác cùng số

Vinh dự từng là chiến sỹ QĐND của Đại tướng - Trần Trung SángMiệt quê - Trần Huy Minh Phương Vật thờ của vương quốc - Nhụy Nguyên Tiếng trưa - Nguyễn Nhã TiênNhững ngày áp thấp - Lê Thanh MyĐường ta đi dài theo đất nước - Nguyễn Thị Thu SươngThơ Nguyễn Hưng HảiLính cũ - Phan Thành MinhKhúc tháng Chạp - Trần Thiên ThịThơ Lê Hoàng LêThơ Trác MộcCuối năm chào núi ta về - Vĩnh ThôngKý ức mùa thu - Nguyễn Đức Phú ThọChiều cuối năm - Đinh Thị Như ThúyTrở lại quê xưa - Nguyễn Đức MinhThơ viết cho con - Mai Hữu PhướcNợ ! - Nguyễn Ngọc NhânCó lẽ… Lê Huy HạnhGiờ học sử - Thanh Trắc Nguyễn Văn Huyền thoại chiến mã - Nguyễn Văn Thanh Hát xạo trong hò khoan xứ Quảng - Đinh Thị HựuTư liệu địa bạ vùng Đà Nẵng - Đinh Thị ToanKhai thác kỹ xảo ngôn ngữ múa dân tộc - NSND Lê HuânVài cảm nhận từ nhiếp ảnh phim đến nhiếp ảnh số - Đặng Đăng KhoaGiấc mộng trạng nguyên trong thơ cha tôi - nhà thơ Nguyễn Bính - Nguyễn Bính Hồng CầuNghe Huệ đen độc ca - Nguyễn Thụy KhaHình tượng mẹ Thứ bằng văn học - Lưu Phương ĐịnhNgười lính Trường Sa qua bài thơ “ĐỢI MƯA TRÊN ĐẢO SINH TỒN ”của Trần Đăng Khoa - Nguyễn Thị Thu ThủyMỹ thuật Đà Nẵng từ mùa xuân 1975 - Hoàng Đặng