Vật thờ của vương quốc - Nhụy Nguyên

18.12.2013

Vật thờ của vương quốc  -  Nhụy Nguyên


Ví như ngài muốn một vũ nữ trinh trắng, mà rất có thể việc đó sẽ khiến ngai vàng của ngài gãy đổ ngay sau trận mây mưa theo như niềm tin tối thượng nay đã trở thành phần vô cùng quan trọng trong lịch sử của một nước Á châu và luôn là tiêu điểm của văn minh nhân loại. Chiếm hữu vũ nữ Tiên Thiên, rất có thể điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra như một dòng trong sử thi Mahabharata: “Vị vua như thế không còn là vua nữa, mà ông ta phải bị giết chết như một con chó điên”.

Hiềm nỗi, ngay thời điểm ngài cần một vũ nữ, không ai khác, thời điểm ngài toan tính liều lĩnh đánh đổi ngai vàng để tác ý với Tiên Thiên, thời điểm nàng đã được khiêng kiệu đến rất gần ngài, thì sự cố xảy ra. Không phải là tin vui từ chiến trận của quân đội Chăm, mà với ngài lúc đó là chết tiệt. Cũng không phải người vợ của ngài đột ngột ghé thăm. Vấn đề xuất phát từ ngài - một con bệnh.

Ngài đã hưởng thụ quá nhiều báu vật. Bao nhiêu báu vật ngài tự tay hái lúc chúng vừa hé nụ. Ngài mỏi, rụng rời đôi tay. Những bông hoa màu đỏ, nhụy vàng như được hòa màu thứ gạch xây đền tháp trở nên nhức mắt ngài. Ngài ham hố, máu nóng muốn bung vỏ não. Vương quốc của ngài đang vững chãi. Đền tháp của ngài đang vững chãi và nó sẽ còn uy nghiêm trong hàng thế kỷ nữa. Nhưng ngài sẽ không tận hưởng hết những nàng tiên theo cách nghĩ nông cạn của ngài là Thiên thượng ban xuống.

Cơn hứng tình của ngài nguội, và tắt ngấm thể như gáo nước dội vào đốm lửa hắt hiu. Ngài hình dung ngôi đền tháp đang rụi, cho tới lúc chỉ còn đống tro vàng mà đỉnh vẫn là cái đầu ai đó thực hành yoga gửi lại thân thể là một mukhalinga... Giựt tỉnh. Ngài ngủ quên, choàng dậy như quên một việc hệ trọng đã thao thức, thấp thỏm lo âu suốt những ngày qua.

Ngài hình dung nguyên vẹn ngôi đền tháp quá lâu rồi không thăm viếng. Ngài hình dung rõ nét hình hài của vị sư đắc đạo ở thế kiết già, hơi tròn, cổ vươn rồi phóng mình về phía hào quang của Phật. Và ngài hình dung về cái linga màu xám... Bộ não nhiều chất bổ dưỡng của ngài hoạt động. Ngài không hề có ý hạ bệ linga đã trở thành báu vật đệ nhất thần của vương quốc. Ít nhất hai nhi nữ hoàng thân có chồng tử trận đã tới chạm tay lên vật thờ để nhận lấy hạt giống từ không gian bên kia truyền lại. Ít nhất ngài đã được vật thờ ban phước sau những trường tình bất tận, để ngài vẫn đủ tâm lực giữ vương quốc không chao đảo. Ngài tin. Và niềm tin đó không  dễ chuyển lay. Niềm tin đó được ngài, bằng cơn cuồng tín, đã dùng mọi sức mạnh sẵn có để củng cố, tôn vinh, lấy đó làm điểm tựa cuối cùng khi quỵ ngã.

 

*    *

*

 

Tôi có luân chuyển qua bao nhiêu kiếp chắc chắn vẫn còn nhớ khuôn mặt dài thòng của hắn, với vết sẹo kéo từ phía ngoài ria mép bên trái xuống cằm mà hắn đã dùng bộ râu nhớp nhúa không đen cũng không ra trắng ngụy trang.

Tôi không rõ đã mắc nợ hắn những gì, lúc nào, kiếp nào, hay người thân nhất của tôi có phải tội với hắn. Tôi cũng không biết hắn kéo tôi lên từ huyệt mộ nào, từ nghĩa địa nào. Tôi càng không thể nhớ tôi đã sinh ra và lớn lên như thế nào. Tôi không biết mình chết như thế nào. Vào một đêm mưa xói lở đền đài. Vài viên gạch non loang ra như máu đào. Tên đạo sĩ lôi tôi từ huyệt mộ còn chưa kịp hoàn hồn. Tôi níu lấy quan tài, tấm gỗ bật tung, mùi thối khẳm bốc. Nắp quan tài bị lôi là là trên mặt đất quãng ngắn, rã rời đôi tay, tôi buông, và xuội theo cơn gió lạnh lùng của tên đạo sĩ... Mở mắt tỉnh dậy, tôi thấy mình bị một khối đá đè chính bộ phận sinh dục. Khi tôi lờ mờ nhận ra khối đá ấy chính là linga, cũng là lúc tôi nhận ra nó chính là “linga” của tôi, đầy xúc cảm. Từ cõi chết trở về cõi sống. Tôi đang sống bằng thân thể tàng hình, chỉ trừ linga. Qua một đêm, và đêm nữa, tôi mới nghẹn đắng nhận ra mình đang chịu cực hình: nằm ngửa, thấy tất cả, cảm nhận tất cả; tất cả lại không nhìn thấy tôi, ngoài linga. Người ta sờ tay lên linga, gục đầu lên linga, ôm hôn linga, khấn nguyện linga... thảy đều không nhận ra tôi. Tôi hét, gào, vùng vẫy, đạp chân, vặn người... vô vọng. Không ai thấy tôi, ngoài tên đạo sĩ.

Tên đạo sĩ vẫn nhắm hờ mắt. Tôi biết hắn thấy tôi, hắn thấy tôi chỉ trỏ, nguyền rủa hắn. Bộ ria khẽ rung, cái nhếch mép dưới đó chỉ đủ cho tôi thấy khi nằm ngửa nhìn lên. Tròng mắt tôi cương đỏ, rằn máu. Tròng mắt tôi sắp phụt khỏi hốc. Hốc mắt ngứa, rát. Tên đạo sĩ chỉnh lại nụ cười, nghiêm trang hơn. Hắn nhắm nghiền mắt, thì thầm. Tôi đã nghe được lời hắn dẫu không thành tiếng. Tôi đang tiếp kiến hắn ở một tầng không gian thâm sâu khác. Hắn cài vào quãng đời tôi một lời nguyền... Đứng dậy, hắn không bỏ thêm lời nào. Hắn sợ bức tường nghe thấy, hắn sợ lão canh đền đang áp tai ngoài tường nghe thấy. Hắn bỏ tôi lại với bầy dơi loạng quạng trên đỉnh tháp. Nhiều con va cánh rớt ngay đầu linga, phụt máu đen.

Tôi sống trong tuyệt vọng. Không nỗi đau đớn ê chề nào hơn. Tôi đã tắt ngúm niềm hy vọng như ngọn đèn trên vách tháp gặp cơn bão đêm xoáy từ đỉnh tháp. Ngọn đèn đêm đêm hắt bóng cội linga vươn về phía cửa. Và lần đầu tiên có người đạp lên cái bóng đó khi cánh cửa tháp bật mở, chính là nàng. Tiên Thiên.

Tôi vùng mình toan nhảy phốc vào bóng tối. Tôi đang trần truồng thô lỗ trước vũ nữ của vương quốc này. Không đợi vua trừng phạt, tôi sẽ bị thiên tượng phán xét tội dơ dáy trước một vũ nữ đến vua cũng khó nghĩ chuyện chạm tay vào ngực nàng. Tôi vùng. Không nhấc nổi mình. Chợt tỉnh: Tiên Thiên, nàng cũng không hề thấy tôi ngoài linga - vị thần tối cao của vương quốc nàng đang “sở hữu”.

Tôi căm thù tên đạo sĩ tận gan óc. Tôi không hiểu sao vị sư đắc đạo không để lại một hóa thân bên linga, để tên đạo sĩ thấp lùn, bụng beo, mặt chuột kia không dám bước vào ngôi tháp này chứ nói gì đến chuyện tư thù ai đó mà đọa đày trong đảo điên kiếp sống. Tôi lại vẫn không hiểu gì thêm, Tứ thiên vương trên cao nhìn rõ mồn một hành động của tên đạo sĩ lại không vung tay vật ngã hắn ộc máu tươi, hoặc sẽ cho hắn thay tôi chừng vài ngày qua đêm, để hắn cảm nhận nỗi “sướng” khi những bàn tay thoa lên đầu linga hầu mong nhận điều mầu nhiệm.

Hắn luồn vào tai tôi một lời nguyền, chỉ mình tôi cảm nhận, chỉ mình tôi nghe thấy, lưu giữ và đấy chính là “phương thuốc” khiến tôi phải sống. Sống lay lắt. Quằn quại. Sống để hy vọng về một điều gần như vô vọng.

Trong nỗi quạnh vắng của đêm, tôi nghe được cả tiếng rầm rì từ quá khứ. Tiếng dịch chuyển những viên gạch chồng khít lên nhau, dính kết vào nhau chỉ bằng một lớp vữa mỏng; tiếng kêu thương của những hình họa được chạm khắc trên mặt tháp, run rẩy; tốp vũ nữ uốn cong vòm tháp; tiếng ma Hời cô đơn giữa chiến trường hoang lạnh trùng khơi... Thật khuya, chừng như đêm sắp quỵ vào ban mai, tên Pháp sư thi thoảng có đến. Tôi không rõ hắn có mở cửa tháp không, hay hắn chui xuống từ lỗ hổng trên đỉnh? Tôi vô tình tỉnh giấc, đã thấy hắn an tọa quay lưng về phía linga. Rất gần. Tôi vươn tay túm tóc hắn. Ngọn đèn mờ, báo hiệu đêm sắp tàn. Tóc hắn tung bay về phía tôi. Tôi dùng tay quấn lại, giật mạnh. Vô hiệu. Đôi tay tôi, thân thể tôi chỉ là cái bóng. Tóc hắn vương người tôi, nhột nhạt, rờn rợn. Tôi lại cố lăn mình về phía hắn. Với sự cố gắng vênh vẹo xương sống ấy, tôi nghĩ sẽ lật được linga đồ sộ kia đổ xuống, đập đúng đầu hắn... Tên pháp sư xoay mình, khiến tôi giật bắn. Kiểu như hắn ngồi trên một cái bàn xoay, chứ không phải hắn xoay. Tôi không thấy hắn cử động gì, chỉ thấy... xoay. Hắn đối diện tôi, với khuôn mặt dài, nhọn ở cằm.

Khuôn mặt biến đổi mau lẹ. Những vết nhăn khắc khổ, như tên pháp sư đang câm nín chịu đựng cơn đau cuộn lên. Hơi cúi. Hắn vẫn không hé tròng mắt nhìn tôi. Cứ như hắn gánh giùm tôi ít nghiệp. Cứ như hắn là một vị thánh, còn tôi là hàng súc sanh đang chịu hành hình bởi nghiệp quả. Nhân danh cán cân chân lý vũ trụ, hắn đứng ra “giải nghiệp” cho tôi. Tôi u mê đã trách nhầm hắn, nghiệp càng thêm nặng.

Tên pháp sư đứng dậy. Bước về phía cổng tháp, nơi ấy ngập bóng tối. Ánh đèn trên vách tháp heo hắt, lụi dần và... chôn luôn tôi. Cơn trở dạ của đêm bắt đầu.

 

*    *

*

 

Tên pháp sư đã ở bên vị vua đáng kính của hắn. Hắn hoàn toàn không có ý lộng quyền, không có ý leo phẩm tước. Hắn cũng không hẳn cần bạc vàng, mỹ nữ. Hắn, có lẽ muốn vin vào quyền lực của vương quốc này để chiếm dụng một chỗ đứng ở tầng cấp trên cao vời đỉnh tháp. Hắn, sự đại diện cho đức tin của vua. Và khi tâm thể vua bất an, lập tức hắn được vời gọi, được đón rước.

Thêm một bàn tiệc nhỏ, thêm những nữ nhi mới được “giải phóng” khỏi cung cấm tới hầu rượu. Ba phận nữ, hắn nhận một. Tên pháp sư chỉ làm ngụm rượu nhỏ, ăn miếng thật nhỏ từ lưng khúc giữa con rắn to bằng cổ hắn, thơm phức. Dường như hắn thích mùi xác thối hơn. Thường đêm, hắn vẫn có chuyến vòng vèo nghĩa địa, tìm những con mồi mới gia nhập thế giới âm đang run sợ héo hon, co rúm giữa “rừng người” chưa được nhận lệnh về đâu... Đối diện, vị vua của hắn ngao ngán nhìn mâm tiệc. Tên pháp sư vẫn nhai, hắn nhai chút thịt rắn trong miệng ra nước, hay hắn muốn khêu gợi lòng kiên nhẫn và cơn ngứa mắt của vua. Rất chậm, hắn nuốt, chóp chép miệng, thêm ngụm nhỏ rượu quý, không đủ tráng miệng. Lại nuốt. Lau miệng.

Tên pháp sư nhìn lại món rắn, chỉ tay, nhìn vua, hỏi:

“Sao chúng ta lại ăn thịt rắn?”

Ba nữ nhi cung cấm thôi hầu rượu. Những tên cận vệ đứng xa cũng được cho lui. Vị vua nhìn tên pháp sư, chưa vội nói. Ở đây hắn gần ngang hàng với vua.

“Con rắn này đã hết sinh lực. Ta cho làm thịt”.

Tên pháp sư không cần suy nghĩ. Câu hỏi của hắn chỉ là tô vẽ cho sự đạo mạo của mình. Hắn hiểu chuyện từ khi nhìn thấy món rắn trên bàn tiệc.

Vị vua lắc đầu, giọng chua chát, bất lực:

“Thần Naga đã bỏ Ta...”.

Khuôn mặt của tên pháp sư trở nên lạnh lùng, rướn mày. Vẫn rất chậm, hắn áp chế tinh thần vị vua đầy kinh nghiệm trận mạc bằng câu hỏi như lời trách:

“Lâu nay Ngài có ghé đền tháp viếng vật tổ?”.

Vị vua rụt mình. Với ngài, tên pháp sư là “phát ngôn” của vật tổ.

“Tất cả xuất phát từ vật tổ”.

“Ta phải làm gì? Đi viếng vật tổ bây giờ ư?”

Tên pháp sư lắc đầu.

“Vật tổ đêm qua phát hỏa. Nóng. Rất nóng... Trước hết chúng ta phải làm mát ngài bằng những giọt nước”.

 

“Những giọt nước?”

“Đúng vậy. Phải luôn có nước treo trên đầu vật tổ, từng giọt một rỏ xuống, thật chậm. Thật chậm...”.

Tên pháp sư cương nghị nhìn bộ mặt ngây ngô rất thộn của nhà vua. Liền thì hắn dùng thứ nước cốt vàng sánh từ dĩa thịt rắn và phác thảo ngay trên tấm lụa trắng hình vật tổ.

“Kiểu thờ phụng này có tên Shaivute. Đây là vật tổ. Chúng ta treo một chiếc nón dharapatra lật ngửa (đựng đầy nước) trên đầu. Con rắn linh thiêng tạo hình lép, vươn lên che vật tổ nhìn từ phía ngoài cổng tháp. Chiếc nón dharapatra sẽ được khoan một lỗ rất nhỏ, chỉ đủ nước rịn ra thành giọt. Thật chậm. Mười bước chân thong thả một giọt...

 

 Vị vua, miệng ngoác ra. Gật.

Hắn tiếp: “Hình thức tôn kính vật tổ này không những vị vua sẽ đạt được những ý nguyện trong kiếp này...”.

Tên pháp sư còn đề nghị nên sai làm một kosa bằng vàng để bọc phần đầu của vật tổ, trừ một lỗ nhỏ... Rồi thì hắn còn liên tưởng một cách sâu sắc đến sử thi Mahabharata, véo von đọc cho vị vua nghe về nghi lễ tẩy rửa linga; về phương cách trang trí trên bệ linga trong Ramayana... Hắn hót một cách say sưa và hơn thế còn trích dẫn ở chương Uttara-kanda, cho rằng linga có “vỏ bọc” bằng vàng sẽ bảo đảm cho sự thịnh vượng của vương quốc này. Dĩ nhiên hắn không ví dụ thêm: việc thờ phụng theo kiểu đó đã mang đến cho Quỷ vương Ravana quyền năng tối thượng.

 

*    *

*

 

Tôi buộc nghe những gì tôi không muốn nghe. Đêm nghiêng tai kỳ diệu; hỗn mang âm thanh thấm não. Mưa vẫn bay trên đỉnh tháp được xem là chốn linh thiêng vô hạn. Tôi không hớp được giọt mưa nào. Không một giọt bắn vào người tôi, cả linh vật. Qua thu, tháng mười, tháng của lễ hội. Cả vương quốc ngập sắc màu. Người ta nhảy múa, hát điệu ai oán thương tích, rung động từng thớ gạch. Đêm sà cửa tháp và những ngôi sao non rơi nhiệm màu vào lỗ hổng nhỏ nhoi trên đỉnh, vương vào mắt tôi nỗi phiền muộn xa xôi quá vãng. Tôi chìm vào cơn mê nhung huyền, thấy mình là một chiến binh trên lưng ngựa, giữa những thây người vừa ngã. Ánh tà dương chênh chếch loang buồn qua những bụm máu đang dần co chặt vào đất. Rất nhiều những ngọn giáo cắm sâu, dựng cán xiêu vẹo, và không ít trong số đó kéo lật thây người viên dung sự chết...

Lão gác đền có hôm đến thật muộn, kéo tôi khỏi buổi chiều vàng rộm, lúc tôi đang thong dong bước lên đồi, mắt không rời chú ngựa chạy như bay về phía sông. Tôi mở mắt và chỉ muốn chết đi như mọi chiến binh bị mũi giáo xuyên qua trong cơn mê vừa vỡ. Bóng tối. Ngọn đèn trên vách rọi cái bóng nặng nề vào đền kia. Chán ngắt. Mắt tôi sáng dần. Một lão già tội nghiệp. Chăm chỉ và mộ đạo. Lúc nào đến gác, lão đều quỳ trước linga, chắp tay trước trán. Tôi chẳng nghe được gì; không như tôi đã từng nghe lời nguyền của tên pháp sư. Lão quỳ trước linh vật thường đêm, mỗi lúc tỉnh dậy, và trước lúc rời đền tháp khi bình minh hé rạng. Có cảm giác linga đang dần tách khỏi cơ thể tôi thành một linh vật độc lập. Rất mơ hồ, song tôi nghĩ “nó” có cảm ý với lão già gác đền. Nó thường tỉnh dậy một mình, lúc tôi vẫn ngủ, lúc lão gác đền trở dậy như có sợi dây vô hình liên hệ. Cũng có thể, do lão già gác đền quá nhiều lần quỳ trước linga, nguyện cầu, nên vô tình lão đã truyền vào linh vật tư duy? Lão luôn giặt tấm khăn sau mỗi lần lau vật thờ. Có lần đang lau, lão chợt ngưng, thả tấm khăn và đặt úp hai bàn tay trần lên linga. Lão nhận được gì từ linga - loài vật duy nhất trên cơ thể người là tôi?

Bây giờ thì lão gác đền không cần phải lau chùi “nó” nữa. Vật thờ đã được làm sạch và làm mát bằng những giọt nước rỏ xuống từ nón dharapatra. ...tóc!... tóc!... tóc!... những giọt nước thánh chậm rơi, vỡ tan trên đầu linga. Tôi liếm láp thứ nước ngọt lịm bắn vào môi. Hạ hỏa. Hồn nhẹ bẫng. Những giọt nước cũng bắn lên khắp người tôi. Niềm hân hoan dâng trào. Khoảng trống cằn cỗi trong người được tưới tắm, tẩy uế. Bắt đầu từ chập tối, lúc linga nhận được giọt nước đầu tiên rỏ xuống, da thịt tôi màu mỡ. Tôi thả lỏng, xuội tay chân, cả linga, rồi... ngủ. Chưa vào đêm. Lão gác đền chưa tới. Và lão tới lúc nào tôi không hay. Linga cũng thiếp đi trong mộng mị phù du.

Sang canh. Tôi giật nổi lên như bị mũi kim đâm lẹ. ...tóc...! tóc!... Tôi rùng mình. ...tóc!... rùng mình. Ai nện vào đầu tôi? ...tóc!... Giọt nước. Giọt nước chậm, thuỗn ra trước lúc dứt khỏi chóp nón dharapatra giáng xuống... Cứ mỗi giọt, tôi lại rùng mình. Những giọt nước nhẹ tênh, mềm, mát, giọt nước thứ một triệu linh hai... bây giờ hóa mũi kim, chích vào đầu linga tôi. Nhói tận óc. ...tóc...! tóc!... Giọt nước thứ một triệu linh ba, một triệu linh tư... bộ phận nhạy cảm nhất trên cơ thể tôi nhức buốt. Mỗi giọt nước, một cái rùng mình, một cái giật nảy, chuyển lay cả móng tháp. Tôi nhớ đến vị sư đắc đạo, cầu khẩn đền tháp sẽ lay chuyển, sụp đè lên vật thờ, lên tôi, đè nát niềm tin của vương quốc này.

 

*    *

*

 

Cửa tháp mở. Người bước vào đầu tiên không phải là vua, mà là Ong Dauh - sứ giả của tam thần đại diện cho vương quốc giao thiệp với thần linh. Một chiếc ghế được đặt giữa tháp, đầu ông chính diện đỉnh tháp hỗng. Ong Dauh bắt chân, đặt cây đàn Kanhi trên đùi. Cúi. Ngón tay xoạc lên hai dây tơ kabwak. U...m...! Âm thanh cộng hưởng trong mai rùa rồi bung ra, xô dạt vào khoảng không thuần tịnh. Tiếng đàn thổi từ xa vắng âm u, khi đoàn người man di quất ngựa điên cuồng trên thảo nguyên, xéo lên bờ cõi của những tiểu quốc bạt ngàn rừng hương liệu và thực phẩm. Ong Dauh rung lên, ngón tay búng trên dây đàn dồn dập, tuyệt kĩ ngón nghề như được tập dượt trọn đời chỉ phục vụ cho một buổi diễn. Tôi co mình lại, rúm ró như con sâu dưới tầng tầng âm thanh siêu quần nhập thế. Thứ âm thanh có thể sai khiến, tập hợp được mọi oan hồn chiến binh đang vật vờ khắp trận mạc trở về xô hết mọi đền đài.

Tốp vũ nữ, mang sẵn vũ điệu từ ngoài đền tháp. Tiên Thiên, nàng ở giữa. Mắt tôi, cảm giác là hai cục nam châm cực mạnh đang hút nàng về phía mình. Tôi sẽ hút được nàng và ôm riết lấy nàng. Tiếng đàn trở nên chói gắt, phách nhịp đanh, từng giây rướn căng, rồi oằn oại. Ong Dauh lên cơn, mê hoặc bởi chính tiếng đàn Kanhi. Cuồng vũ. Có những linh hồn. Những linh hồn Ong Dauh gọi lên từ âm phủ nhập vào vũ nữ, uốn lượn... Tiên Thiên là một tuyệt phẩm không xương. Sắc độ da thịt nàng ảo ảnh, vú rung rinh như hai quả hồng tiên ửng đỏ... Chợt nhiên tiếng đàn tắt lịm. Rồi khẽ rung lên nỉ non, thoảng nhẹ như gió từ thiên triều xoa dịu cơn đau trần thế. Tiên Thiên uốn người về phía sau. Cong. Đầu nàng lọt vào giữa hai chân, ngước, mặt hướng ra phía cổng tháp. Vừa lúc... một cái đầu gắn vương miện nhô chính giữa hai đùi nàng... Vua bước vào. Nàng uống mình trở lại, quỳ xuống. Theo sau là tên đạo sĩ.

Bấy giờ tôi mới thấy lão gác đền. Đêm qua lời cầu khẩn của tôi đã thấu tai đạo sư? Tôi chỉ biết khẳng định điều đó khi giọt nước ngưng. Khô nón. Rồi tôi lại cầu thêm điều ước nữa, là lão gác đền sẽ đến chậm hơn thường lệ, quên đổ nước vào nón dharapatra, hoặc lão ốm liệt, không lê chân được tới tháp. Mình tôi sẽ đối diện với tất cả nỗi cô đơn hoặc cho ma quỷ giơ mặt từ bóng tối, ngoại trừ giọt nước... Lão gác đền mang theo nước thánh, đổ đầy lên nón dharapatra. Trầm được đốt lên. Khói. Ngào ngạt. Giọt nước đầu tiên của buổi lễ vẫn chưa rỏ xuống đầu linga.

Vua quỳ trước vật thờ. Phía sau tốp vũ nữ dăng hàng, chính giữa là Tiên Thiên. Nàng chắp tay trên trán, nơi có chấm đỏ như thần nhãn trong xanh màu ngọc, rồi hạ thấp trước ngực. Nàng đứng rất sát vua. Tôi dõi kỹ miệng vua. Tôi sợ vua sẽ khấn nguyện điều gì đó mà tôi không thể nghe. Tôi nghĩ mình sẽ nghe thấu. Nhưng tôi nhầm. Đến lúc đó tôi có thể khẳng định: tôi chỉ có thể nghe được “ý nghĩ” của tên pháp sư mà thôi; và chắc là hắn không biết tôi có khả năng đó.

Hắn lễ phép tới bên vua, ghé tai nói lời dối trá:

“Vị Sư quý mến vừa gửi một hóa thân xuống nhập vào vật thờ. Xin đức vua lập tức cầu nguyện”.

Giọt nước... tóc! Tôi gồng người lên. Tái mặt.

Tai ù. Tôi vẫn đọc được những ý nghĩ chỉ mới hiện mờ trên nền tư duy của tên pháp sư (chưa rõ dành cho tôi hay vua?): “Ngươi yên tâm. Tiên Thiên sẽ là của ngươi khi nàng không còn trinh trắng nữa”.

 

* * *

 

Tôi (không phải nhân vật “tôi” trong truyện) đã đọc tất thảy các bi ký của vương quốc Chăm hiện được dịch, không hề thấy một dòng nào về vũ nữ Tiên Thiên. Lịch sử nhắc nhiều đến mốc thời gian một đội quân hùng mạnh qua đánh bại vương quốc... Điều này khiến tôi càng hoang mang: chắc khó còn cơ hội “tìm ra” Tiên Thiên. Thật may, gần đây tôi đọc mẩu tin chỉ nhỏ bằng hộp diêm trên báo: “...trước lúc về Tây Tạng, thiền sư 9 lần tái sanh đã ghé vào một quán Bar. Ngài xác định đây chính là vị trí của ngôi tháp xưa nhất khi nó còn là lãnh thổ của vương quốc Chăm”.

Tôi khoác ba lô bắt xe đến ngôi tháp nhận diện trên bản đồ. Đến nơi trời nhá nhem. Ăn tạm lương khô, tôi dựa lưng vào vách tháp ngắm linga trên bệ chính giữa tháp... Tiên Thiên bước vào, quỳ xuống đặt tay thon lên vật thờ. Thần Agni nhóm lửa trong tôi. Teo dần, tọp dần, da bó chặt lấy xương tôi, ngọn lửa đang rút những giọt máu cuối cùng để bốc cháy. Nước! Những giọt mắt nàng, tôi cầu. Chỉ cần một giọt nước mắt rỏ xuống linga, tôi sẽ được giải thoát. Tôi sẽ bật tung mình dậy, ôm chầm lấy Tiên Thiên rồi gục xuống như một con chiên đội ơn Thượng đế đã ban cho nàng giọt nước mắt cứu tôi khỏi phù phép điêu linh của tên pháp sư nghiệt chướng. 

N.N

 

 

Bài viết khác cùng số

Vinh dự từng là chiến sỹ QĐND của Đại tướng - Trần Trung SángMiệt quê - Trần Huy Minh Phương Vật thờ của vương quốc - Nhụy Nguyên Tiếng trưa - Nguyễn Nhã TiênNhững ngày áp thấp - Lê Thanh MyĐường ta đi dài theo đất nước - Nguyễn Thị Thu SươngThơ Nguyễn Hưng HảiLính cũ - Phan Thành MinhKhúc tháng Chạp - Trần Thiên ThịThơ Lê Hoàng LêThơ Trác MộcCuối năm chào núi ta về - Vĩnh ThôngKý ức mùa thu - Nguyễn Đức Phú ThọChiều cuối năm - Đinh Thị Như ThúyTrở lại quê xưa - Nguyễn Đức MinhThơ viết cho con - Mai Hữu PhướcNợ ! - Nguyễn Ngọc NhânCó lẽ… Lê Huy HạnhGiờ học sử - Thanh Trắc Nguyễn Văn Huyền thoại chiến mã - Nguyễn Văn Thanh Hát xạo trong hò khoan xứ Quảng - Đinh Thị HựuTư liệu địa bạ vùng Đà Nẵng - Đinh Thị ToanKhai thác kỹ xảo ngôn ngữ múa dân tộc - NSND Lê HuânVài cảm nhận từ nhiếp ảnh phim đến nhiếp ảnh số - Đặng Đăng KhoaGiấc mộng trạng nguyên trong thơ cha tôi - nhà thơ Nguyễn Bính - Nguyễn Bính Hồng CầuNghe Huệ đen độc ca - Nguyễn Thụy KhaHình tượng mẹ Thứ bằng văn học - Lưu Phương ĐịnhNgười lính Trường Sa qua bài thơ “ĐỢI MƯA TRÊN ĐẢO SINH TỒN ”của Trần Đăng Khoa - Nguyễn Thị Thu ThủyMỹ thuật Đà Nẵng từ mùa xuân 1975 - Hoàng Đặng