Tiếng trưa - Nguyễn Nhã Tiên

18.12.2013

Tiếng  trưa - Nguyễn Nhã Tiên


                                                                  Buổi trưa đi vào giữa lòng lá nhỏ

                                                                                                                                           B.G

 

      Trên con đường hầm hập nắng nóng giữa một buổi trưa mùa hè, đáng lẽ ra tôi vù xe chạy thêm một nhoáng nữa là qua cầu về tới nhà ở phố xá bên kia sông. Ấy vậy mà tiếng hót ( hay là tiếng gáy) của đôi chim cu “ Cúc…cù…cu” trên lũy  tre ở bìa làng thôn nhỏ ven sông này, cám dỗ tôi quành xe lại đứng ngẩn ngơ dưới hàng tre vừa trốn nắng, vừa nghe chim hót.

      Chẳng phải tôi rành gì mấy thú chơi chim, để thưởng thức cái âm giọng thổ pha kim nồng nàn của đôi trống mái chim cu đang tình tự với nhau theo từng nhịp gió thổi. Nhưng quả thực, nghe cái tiết tầu “ gù…gù…” rồi luyến láy trầm bổng vang xa “ cúc…cù…cu…” trên vòm xanh kia, từ đấy có cảm giác như tỏa ra một năng lượng làm dịu mát cơn nắng nóng buổi trưa hè. Và còn hơn thế nữa, dường như đấy là thứ âm thanh biết hoài cảm của giống loài chim đa tình dễ làm thao thức nỗi hoài hương  của những người xa xứ.

      Cái làng quê ven sông này từ mấy năm nay, thực ra cũng chẳng còn là làng quê nữa. Dăm ba bụi tre còn lại nơi con đường bìa làng bên một cái lạch nước, có lẽ do  người ta cần bóng mát cho một công trường xây dựng nên chưa cày ủi san lấp nốt. Nhờ vậy mà một buổi trưa tình cờ có chỗ cho tôi và chim chóc khu trú vào đó, để mỗi kẻ một nỗi niềm riêng tha hồ mà hoài vọng về một quê xứ khôn khuây từng ngày biển đã xanh dâu.

      Chuyện những thôn xóm làng quê bây giờ dần hồi “lên đời”đô thị hóa âu cũng chẳng lấy gì làm lạ. Ngày nay đến tận các làng bản xa xôi ở những vùng miền núi non heo hút, còn có nơi bát ngát hơi hướm phố thị hiện đại can dự vào các sinh hoạt đời sống, huống là cái làng ở vùng ngoại ô này. Chỉ có điều sự thay đổi nơi đây không theo cái dòng chảy thời gian loang dần từng phần, kiểu như mỗi ngày rồi ra “ hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”, mà triệt để đến từng cây cỏ. Hàng trăm, hàng nghìn mẫu đất đai ruộng đồng tươi tốt, vườn tược sum suê cây trái đều cày xới san ủi trắng xóa, đến không còn mong nhìn thấy bóng dáng một cọng khói rơm rạ nào bay lên. May mà còn đôi chim cu về đậu trên mấy ngọn tre kia, bật lên tiếng hót mong manh. Có vẻ như từng hồi tiếng chim gióng lên cao rồi xuống thấp theo nhịp điệu gió vít đầu ngọn tre cong vòng xuống, là từng hồi kể lể mênh mang trước vô tận về những biến dịch muôn thuở sông cạn đá mòn. Mà thanh âm của đôi chim cu kỳ diệu thật! Cứ chầm chậm ngắt quãng đều đặn như một giai điệu slow gieo vào những tầng không. Hễ cách một quãng ngắt là không gian tưởng chừng như trong xanh hơn, xa xăm và thanh vắng một cách lạ lùng.

     Buổi trưa đi vào giữa lòng lá nhỏ. Tiếng kêu kia còn một chút mong manh. Dòng nức nở những tia hồng đốm đỏ. Lạc trời cao bóng tụ kết không thành. Cũng chẳng rõ vì sao vào những lúc nghe tiếng chim vang xa gọi cả trời thanh vắng kia tôi lại lầm thầm ngâm nga mấy câu thơ của thi sĩ Bùi Giáng. Có một hiệp thông nào đó từ cái thôn nhỏ ven sông này mách bảo, hay là “ tiếng kêu kia” của loài chim bàng bạc một thứ mật ngôn có khả năng dẫn đường cho vô thức vỡ tràn mộng mị về một quê xứ siêu hình ẩn tàng giữa mấy tầng không. Chợt nhớ có lần tham dự Festival của một thành phố. Tại đấy người ta bày ra, xen trong không gian tấp nập của phố phường dăm ba cái lều tranh có phên tre liếp cửa, có quanh co đường làng, có cầu tre lắt lẻo…Nhìn vào đó, ai cũng có thể hiểu đấy là một làng quê, nhưng mà là một làng quê…kiểu sức, làng quê trình diễn, được tạo dựng lên như một thứ mốt hoài cổ. Kể cũng lạ, có những xóm làng thanh bình xanh ngời sức sống, đẹp như cổ tích, vậy rồi người ta chối từ,  ào ạt dọn dẹp tất cả đi để đua bơi đô thị hiện đại. Đến một ngày chợt thấy thiên hạ tưng bừng lễ hội văn hóa, lễ hội tâm linh…,có nơi xênh xang và đồng bóng các kiểu, vậy là mình cũng lều tranh cây đa bến nước sân đình, cho nó “đậm đà bản sắc”, mà người tinh ý sẽ sớm nhận ra mớ đồ giả thêu thùa trên những tâm hồn trống trơn cằn khô văn hóa.

     Đứng dưới bóng tre làng, cận kề cái mép nước của con lạch chảy từ sông vào. Rồi mai mốt đây con đường làng của thôn nhỏ này cùng với cái lạch nước bồng bềnh những chùm ấu dại xanh biếc kia, sẽ không còn lý do để tồn tại trước cái dự án mênh mông ngày ngày gầm rú tiếng máy ủi cày xới. Lẽ đương nhiên đôi chim cu trên cao ấy cũng sẽ không còn chỗ để bay về cất tiếng hót tình tự ru mát những trưa nồng. Chả hiểu chim có dự cảm gì không mà tiếng hót mênh mang chậm rãi từng hồi, như niềm chung thủy cuối cùng tan vào từng ngọn gió nồm thưa thớt thổi qua đồng bãi trắng xóa.

 

 

                                                                                                Đà Nẵng.Cuối Hạ 2013                                                                                                                         

                                                                                                            N.N.T

 

 

Bài viết khác cùng số

Vinh dự từng là chiến sỹ QĐND của Đại tướng - Trần Trung SángMiệt quê - Trần Huy Minh Phương Vật thờ của vương quốc - Nhụy Nguyên Tiếng trưa - Nguyễn Nhã TiênNhững ngày áp thấp - Lê Thanh MyĐường ta đi dài theo đất nước - Nguyễn Thị Thu SươngThơ Nguyễn Hưng HảiLính cũ - Phan Thành MinhKhúc tháng Chạp - Trần Thiên ThịThơ Lê Hoàng LêThơ Trác MộcCuối năm chào núi ta về - Vĩnh ThôngKý ức mùa thu - Nguyễn Đức Phú ThọChiều cuối năm - Đinh Thị Như ThúyTrở lại quê xưa - Nguyễn Đức MinhThơ viết cho con - Mai Hữu PhướcNợ ! - Nguyễn Ngọc NhânCó lẽ… Lê Huy HạnhGiờ học sử - Thanh Trắc Nguyễn Văn Huyền thoại chiến mã - Nguyễn Văn Thanh Hát xạo trong hò khoan xứ Quảng - Đinh Thị HựuTư liệu địa bạ vùng Đà Nẵng - Đinh Thị ToanKhai thác kỹ xảo ngôn ngữ múa dân tộc - NSND Lê HuânVài cảm nhận từ nhiếp ảnh phim đến nhiếp ảnh số - Đặng Đăng KhoaGiấc mộng trạng nguyên trong thơ cha tôi - nhà thơ Nguyễn Bính - Nguyễn Bính Hồng CầuNghe Huệ đen độc ca - Nguyễn Thụy KhaHình tượng mẹ Thứ bằng văn học - Lưu Phương ĐịnhNgười lính Trường Sa qua bài thơ “ĐỢI MƯA TRÊN ĐẢO SINH TỒN ”của Trần Đăng Khoa - Nguyễn Thị Thu ThủyMỹ thuật Đà Nẵng từ mùa xuân 1975 - Hoàng Đặng