Thu Bồn – Gió thổi miền bất diệt

14.03.2011

Thu Bồn – Gió thổi miền bất diệt

Nguyễn NhãTiên

Không biết có phải làmột cuộc phối ngẫu kìvĩgiữa người vàđất chăng, màcùng với sức sống phù sa của một dòng sông, đất đai ấy lại sinh nở một nhà thơ mang tên chính dòng sông chảy giữa lòng quê xứ của mình “Sông Thu Bồn ơi! Ta nghe người đương thở. Vỗ triền miên gội tóc những nương dâu”.

Kỳthực gọi Thu Bồn là nhàthơ(cho dùông sáng tác cả văn xuôi lẫn thơ) là bởi cái tâm hồn lồng lộng những ngọn gió vừa ưu du, vừa phong trần kia. “Em đừng trách anh là ngọn gió. Của trăm miền nên giờ vẫn xa xăm”…Thực ra khối lượng văn xuôi của Thu Bồn cũng không kém gì thơ ông sáng tác, có đến hơn cả chục tác phẩm: Hòn đảo chân ren (1972), Dưới đám mây màu cánh vạc (1975), Dòng sông tuổi thơ (1973), Em bé trong rừng thốt nốt (1979), Đỉnh núi (1980), Mắt bồ câu và rừng phi tiễn (1986), Cửa ngõ miền tây (1986), Dưới tro (1986), Vùng pháo sáng (1986)… Nhưng nói đến Thu Bồn, hầu như người ta biết đến thơ ông nhiều hơn, điều này phần nào nói lên những giá trị nghệ thuật của thơ Thu Bồn, mà hiệu quả là sức sống của nó giữa lòng đại chúng. Nói như Albert Camus trong diễn từ của mình tại Lễ nhận giải thuởng Nobel văn học: “Đối với nghệ thuật không phải là một lạc thú để hưởng riêng một mình. Nó là phương tiện để cảm xúc đông đảo quần chúng bằng những hình ảnh đặc thù về những nỗi đau thương chung và những niềm hoan lạc chung. Như vậy nó buộc người nghệ sĩ phải phục tùng sự thật tầm thường nhất và đại chúng nhất” (Văn học phương Tây. NXB Giáo dục. Tr759). Thơ Thu Bồn đã chiếm lĩnh được trái tim đại chúng bởi một thứ lửa được thắp lên, đốt lên từ những sự thật đó. Sự thật đau thương, sự thật hờn căm, sự thật bi tráng...trong hoàn cảnh đất nước thời chiến tranh, trận mạc. Mà đỉnh trong mọi đỉnh thơ Thu Bồn là trường ca “Bài ca chim Chơrao”.

Trong hồiức của mình, lúc còn sinh thời Thu Bồn đã từng nhiều lần nói đến trường ca “Bài ca chim Chơrao”, trường ca đầu tiên của nhà thơ đồng thời cũng là tác phẩm có ý nghĩa quyết định đến sự nghiệp sáng tác của ông về sau này. Không chỉ có vậy, trường ca “Bài ca chim Chơrao” còn hơn thế nữa. Ngoài ánh sáng lấp lánh của Giải thưởng Văn học quốc tế Bông Sen, tác phẩm này còn đưa vị thế Thu Bồn đứng vào vai trò người khai mở, người dẫn đầu cho hàng loạt những trường ca của nhiều nhà thơ khác về sau.

Khai thác, làm mới những giá trịtruyền thống, nhất là được đứng trên mảnh đất Tây Nguyên lung linh sử thi, nhưng phải là một Thu Bồn lãng mạn, khỏe khoắn, ào ạt, cuồn cuộn và đầy ắp vốn sống. Từ bao giờ Tây nguyên đã thấm đẫm vào tâm hồn ông, nhà thơ đã nhuần nhuyễn chất liệu Tây Nguyên trong mọi cách sử dụng:

“Sức mạnh Đam San tay thần Xinh Nhã

Dồn vào lồng ngực Nơ Trang Lơn

Rốc, xếch lên cung, Giàng khiếp sợ

Đá lăn sấmđộng chuyển Trường Sơn

Một rừng nứa tre nướng trăm gùi nếp

Rừng ládong trải thịtđầy

Ngổn ngang chérượu tràn ra đất

Rừng cây chếnh choáng núi cùng say”

Từng hoàn cảnh xuất hiện, khi gay cấn dữ dội, lúc can trường khẩu khí, lúc lãng mạn trữ tình, bố cục nào cũng chặt chẽ theo mạch cảm xúc. Trường ca Thu Bồn ngoài sức vóc của một năng lực bẩm sinh lúc nào cũng hừng hực, còn đầy ắp cái vốn quí của những dày dạn mưa nắng phong trần dồn nén tích tụ, hễ có dịp là bùng vỡ. Ưu thế này không những được thể hiện trong những trường ca của ông lần lượt xuất hiện về sau, mà còn trong nhiều tập thơ xuất bản sau đó: Quê hương mặt trời vàng (Trường ca, 1975), Badan khát (Trường ca, 1976), Oran 76 ngọn (Trường ca, 1979), Người vắt sữa bầu trời (Trường ca, 1985)… Và Tre xanh (Thơ, 1969), Mặt đất không quên (Thơ, 1970), Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (Thơ, 1992), Tôi nhớ mưa nguồn (Thơ, 2001)…

Đọc, dẫu chưa là trọn vẹn tất cả các tác phẩm của Thu Bồn,dù vậy với tôi cũng có thể tạm phân kỳ thời gian. Và, dù cho là thời điểm nào chăng nữa cũng thấy vóc dáng nhà thơ cháy bỏng khát vọng và đam mê ở vị trí hàng đầu. Từ trận mạc trong chiến tranh cho đến đổi mới trong hòa bình, tư thế nào ông cũng dồn dập xốc tới quyết liệt, ngang tàng kiêu bạc mà cũng mềm lòng rưng rưng. Từ “Ta là con chim ngậm vành kết cỏ. Quê hương nuôi ta lớn thành người”, cho đến “Cả một thời trai trẻ kéo nhau đi/ sấm sét ở lại tìm thi sĩ/ miền đất hứa đau buồn chung thủy/ thơ tuôn trào và núi lửa đang phun”. Tưởng chừng như vào bất cứ thời nào, bất cứ ở đâu, lồng ngực thơ Thu Bồn cũng vạm vỡ và chất chứa căng tràn những tầng vĩa, hễ chạm tới nguồn mạch nào là cảm hứng chờ chực vỡ òa ra nguồn mạch ấy. “Cầu vồng lũ trẻ chơi màu sắc. Ta thích làm mây mang bão giông. Rạch chéo đất trời tia kiếm chớp. Thức reo làm thác ngủ làm sông”. Kiêu bạc đến thế mà có lúc “Lấy khăn mà gói bơ vơ/ tay cầm nước mắt bao giờ sang sông/ gặp minh mang cũng mênh mông/ nắng qua bao chuyến mà không nhạt nhòa/ lòng anh rúc tiếng tù và/ gọi đò mãi bỗng nhớ ra gọi mình”.

Dường nhưvào những năm tháng cuốiđời, thơThu Bồn cógiảm đi phần nào cái nhịpđiệu, lưu tốc của một dòng sông cuồn cuộn xiết chảy. Cốnhiên làkhông tính đến những ngày tháng cơn bệnh tai biến vây khốn ông. Nhưng bắt đầu từ “Tôi nhớ mưa nguồn” (2001) ta có thể đọc ra thanh âm ấy, ngữ nghĩa ấy một nỗi đau đáu bàng bạc về những ý nghĩa nhân sinh, thân phận con người: “Chúng ta đều là đất cả thôi!/ xin đừng nặn ta thành những tượng thần/ xin đừng nặn ta thành những non cao/ hãy nặn ta thành những ông táo nhỏ/ cho nồi cơm em bé nghèo hèn/ cho người lớn khát tự do/ trẻ em khát sữa”.

Giảm lưu tốc của một dòng chảy không cónghĩa làbáo hiệu cho một sựkhép lại mà là sự chuyển động theo một nhịp điệu mới, khám phá mới. Nó có thể là trò chơi “Đánh đu cùng dâu bể” hoặc là gì chăng nữa, nhưng tôi tin rằng vẫn nguyên vẹn một tình yêu trong Thu Bồn như chính ông đã viết trong trường ca Badan khát: “Nhưng tất cả sẽ trở thành vô nghĩa. Nếu như mồ bia kia không gọi được mặt trời”

Tiếc thay bao khát vọng đẹp đẽ ấyđã phải chịu dừng bước trước ngưỡng cửa định mệnh. Thi sĩbây giờđã thuộc về hưkhông, làgióthổi qua miền bất diệt. MàThu Bồnđã nói nhưmột lờiước nguyện rồi: “Em đừng trách anh làngọn gió. Của trăm miềngiờ vẫn thổi xa xăm”. Ôi chao, những ngọn gió như những tình nhân suốt đời chung thủy trong ý niệm siêu việt của Tagore, để mỗi khi gọi tên Thu Bồn ta lại nghe ra sông suối thơ ông xao xuyến từng cung bậc thanh âm: “Em đi rồi chiếc bình hoa tưởng vọng, đêm đêm ta cắm những kỷ niệm buồn”!

NNT