MỘT LẦN ĐẾN BÀ NÀ…

14.03.2011

MỘT LẦN ĐẾN BÀ NÀ…

Chế Diễm Trâm

Ghi chép

Coi tivi, từ lâu “Bà Nà hills – đường lên tiên cảnh” đã là mơ ước.

Tôi từ Nha Trang ra thăm thắng cảnh Bà Nà vào một ngày chủ nhật ngập nắng. Tôi không xa lạ gì lắm với quang cảnh các bến đợi cáp treo. Lòng thấy nhớ Vinpearl, nhủ lòng, quê mình cũng có cáp treo, mà lại cáp vượt biển rất độc đáo, nhưng khi đứng trước cáp treo Bà Nà lại có cảm giác thú vị khác. Xếp hàng lên cáp, đồ đạc lỉnh kỉnh, nghĩ con người ta lạ thật. Ai cũng nói chỉ muốn sống “yên ổn” vậy mà con người ta thích di chuyển không thôi. Đám thanh niên trẻ rất đông. Đà Nẵng có nhiều trường Đại học, chắc là bọn sinh viên đi chơi cuối tuần.

Lên cáp. Bắt đầu hai tai lùng bùng, người chao chênh như say say. Tôi chưa từng dám thử say rượu nhưng say xe, say tàu biển, say nắng, say… khoai mì Ấn Độ thì đã nếm mùi nên thấy cái say cáp có vẻ dễ chịu hơn. Nhớ đường cáp lên hồ Tuyền Lâm Đà Lạt. Nhưng rừng thông Đà Lạt không chập chùng như ở đây. Trừ thằng nhóc con tôi, tôi hỏi bốn người cùng ngồi trong cabin, ai cũng lắc đầu không biết đó là rừng cây gì, chỉ thấy nở hoa màu na ná xanh cốm như hoa sữa. Tôi căng mắt tìm thử đào chuông hồng hồng như mình đã xem một clip về Bà Nà mà vô vọng. Nhìn xuống nôn nao, chắc mặt mày tôi xanh tái nên một người đổi chỗ cho tôi được nhìn theo hướng thẳng lên đỉnh núi.

Lên đến trạm đầu tiên một cảm giác lạ lẫm xâm chiếm. Đà Nẵng nắng xát tai, lên đây sương mù luênh loáng, sà vào tận bàn tay. Tôi vừa từ Sa Pa về, trên đó cũng đầy sương nhưng là sương trên chân núi, đỉnh núi. Tôi lang thang trong lòng chảo Sa Pa chỉ có mưa và hơi lành lạnh. Tôi chủ quan nghĩ ai cũng bảo Bà Nà là Sa Pa thứ hai. Vậy mà ở Sa Pa tôi chẳng phải mặc áo ấm, nên lần này lên núi Chúa tôi để hết áo mũ tất tay tất chân ở Đà Nẵng. Cáp đưa lên trạm thứ hai, nhìn xuống thấy con đường bò quanh núi. Một người kể ngày xưa phải chạy xe loanh quanh như thế.

Người ta vẫn bảo một ngày Bà Nà có đủ bốn mùa. Tôi lên lúc đã gần trưa, thấy lúc mát lúc lạnh, không biết gọi cho chính xác đang là mùa gì. Mùa xuân ư? Xuân thì làm sao có sương trắng trời? Ừ mà có thể lắm chứ. Sáng sớm xuân có khi cũng đùng đục thế này. Nhưng sương xuân không bay được như ở đây. Rồi bất chợt nắng vàng rực rỡ hiện ra một buổi trưa mùa thu. Có lẽ Bà Nà có hấp lực chính bởi thoắt thế này thoắt thế kia như thế này đây chăng? Từ đó lúc nào trong tôi cũng bám riết một ý nghĩ mình đang ở mùa nào, ý nghĩ đó làm đầu óc tôi bận rộn suốt.

Về nhận phòng, tôi quyết định phải tắm một cái như đang là giữa trưa hè. Nhưng tôi phải điều chỉnh nước ấm hơn, chính là sợ lạnh quá ốm mất. Người dẫn tour hẹn đến ba giờ rưỡi chiều mới đi loanh quanh, nằm mãi trên giường thì phí quá. Cả phòng không ngủ, mở toang của sổ để xem ông trời vần vụ sương gió.

Quả nhiên, đang ngồi trước cửa sổ mười phút chúng tôi đã chứng kiến đủ các loại nắng sương lúc bảng lảng vẫy gọi từ đàng xa, lúc ràn rạt ùa đến cứ như trời đất làm ảo thuật. Phải ở trong tư thế nhăm nhăm bấm máy mới tạm ghi được những cảnh đặc trưng Bà Nà ấy. Mấy dây hoa leo tim tím như hoa muống biển nhưng tím yểu điệu hơn run run trong màn sương. Tôi ngắm mãi không hiểu chúng có lạnh không, chỉ thấy lòng mình mềm hẳn vì màn hoa tím như rung lên tiếng kêu khe khẽ. Bên kia, trước khách sạn Morin, người ta trồng cẩm tú cầu ba màu, sang trọng như hoa Đà Lạt, vì vậy tôi mới thương quá mấy bông hoa tím dại bên này. Chắc hẳn không bao lâu nữa người ta sẽ đập cái khách sạn cũ này để thành một tổng thể Bà Nà sang trọng và hiện đại. Hoa tím dại mảnh mai sẽ lăn lóc về đâu?

Bà Nà càng về chiều càng say người. Chúng tôi xuống một lần cáp để đi thăm chợ quê – nghe giới thiệu trước là có “chợ” mà không có “quê”, nhưng đến nơi “quê” cũng không mà “chợ” cũng vãn từ hồi nào. Chỉ còn mấy “cô gái quê quê” mặc áo dài cách điệu hiện đại đứng nhìn du khách lăng xăng muốn vào chợ mà không biết chợ nằm nơi mô. Đi vào hầm rượu, có hầm mà không có rượu. Đành đứng trước hầm chụp một tấm ảnh lưu niệm gót chân mình đã từng đến đây. Xe đưa lên đỉnh núi thăm vườn pháp đế Đức Phật đang giảng cho đệ tử về tứ diệu. Một chuyến đi chừng mươi ngày mà nhà tour đã đưa chúng tôi viếng rất nhiều cảnh chùa. Mới hay, Phật có ở khắp nơi bởi vì nhấc con người ra khỏi sân si chắc là không dễ. Rời nhà chùa chon von trên núi có hai con chó “sung sướng”, hình như khách thập phương vào ra tấp nập quá nên chúng không cần sủa để giữ chùa mà chỉ lăn lộn đùa giỡn suốt từ khi chúng tôi vào chùa đến khi đi xa một đoạn nhìn lại vẫn thấy chúng vẫn còn nhá nhau. Đi mãi mỏi chân đã định về phòng thì phát hiện tấm bảng có hình mũi tên và hai chữ “cầu treo” bên dưới. Nhiều người quay về, một nhóm chúng tôi tiếc rẻ, một lần đi một lần khó, đi cho biết. Ai ngờ chiếc cầu treo là điều thú vị nhất trong suốt buổi chiều. Chiếc cầu bập bềnh trong từng đợt sương mù tạt ngang làm bao nhiêu người à, ồ lên khi có cảm giác mình đang bay lên. Đi qua rồi đi ngược lại, lần về nhún nhảy cái cầu mạnh hơn cho có cảm giác phiêu bồng. Rồi cười xòa thích thú. Lạ thay, từ trong sương mù đi ra mà ai cũng đỏ bừng mặt, nhìn ai cũng đẹp hơn, có lẽ do đôi mắt long lanh hơn.

Ăn cơm tối xong cả trường tập trung đốt lửa trại. Thật tiếc là đêm nay trời nhiều sương giá nên không thể chiêm ngưỡng Đà Nẵng về đêm từ Bà Nà. Nghe kể rất tuyệt, như một rừng sao lấp lánh bên dưới tầm nhìn, làm cho con người ta có cảm giác mình đang đâu đó giữa cõi trời. Có người mặc đến ba cái áo ấm nhưng khi lửa đốt lên, nhạc trỗi lên, lăn xả vào nhảy múa, ai nấy đều quên hết cái lạnh. Giữa mùa hè bỗng dưng có một mùa đông, đúng đông, cho mình xuýt xoa, cho mình co ro, cho mình nhớ cái nóng, cái mát quê nhà, làm sao không thú vị. Đáng tiếc nữa là mưa quá sớm, khi đống lửa bắt đầu đượm, nổ tí tách, hoa lửa bay lên, thì mưa đến. Mưa Bà Nà rơi mạnh hạt quất vào mặt ran rát. Vẫn còn tiếc, vẫn hát tập thể, nhưng đến khi mưa tràn đến thì a lê, thầy trò đội mưa chạy. Thi ai chạy nhanh hơn. Vừa chạy vừa “à hú” rất có không khí sơn cước.

Về đến khách sạn, ấn tượng đầu tiên là chúng tôi có rất nhiều vị khách không ngờ. Bướm đêm. Bướm thật chứ không phải bướm đùa! Trời mưa, chúng không có chỗ nấp nên tràn vào hành lang khách sạn. Bên Morin chắc người ta kín cổng cao tường quá nên chúng dạt hết sang bên này. Những con bướm xòe hết hai cánh ra chắc cũng to hơn bàn tay một người đàn ông lực lưỡng. Nhưng cánh chúng đang ướt, đành nằm bẹp ngay trên lối đi. Sao người ta nuôi mà không làm những cái nhà lồng có kính, có lưới như trên vườn hoa Đà Lạt, hoặc như đảo Hoa Lan trên vịnh Nha Phu? Nhìn chúng thật tội nghiệp, có ai đó chắc đã không kịp nhìn thấy nên một thân điệp đã bẹp gí trên nền nhà.

Mưa, mưa dìu dịu, mưa mau mau. Mặt kính cửa sổ nhòe nhoẹt. Muốn nhìn sang dãy đèn vàng bên kia phải lấy tay lau lau rồi áp nhanh mặt mình sát khung cửa, nhìn được vài giây thì kính lại mờ. Hoa lau nghiêng ngả, không biết con khỉ khi chiều trú ngụ nơi đâu? Cứ thế mà lắng nghe mưa Bà Nà ràn rạt mỗi đợt mỗi khác. Không phải mưa rào rào, cũng không phải mưa rì rầm. Cái mưa kiểu như lúc chiều sương gió bay bay cuồn cuộn đây. Không biết giờ này Đà Nẵng có mưa? Chẳng lẽ nửa đêm lại gọi điện hỏi người dưới phố ở đó có mưa không?

Sáng hôm sau chúng tôi rời Bà Nà trên chuyến cáp vận hành đầu tiên trong ngày, cho kịp về đến Nha Trang trước nửa đêm. Vẫn là mùa đông, nhìn ra xung quanh trắng như sữa. Có người kịp lên đỉnh núi Chúa, chống tay lên cái cột trên đỉnh núi cười cười mà chụp hình. Nghe kể mà thấy tiếc mình cứ sợ mưa không dám đi. Vậy mà thoáng cái những ánh nắng mùa xuân đã lấp ló, nhìn xuống thấy rõ suối Mơ đang vặn mình mơ màng. Xuống đến bến đợi, tôi bắt chước mọi người ghé vô quầy lưu niệm mua một cái chuông gió, loại chuông bán trong Văn Miếu Hà Nội được mấy cô bán hàng gọi bằng cái tên mỹ miều “Chuông sao Khuê”. Ở đây người ta gọi đơn giản là chuông gió, tôi gọi là phong linh, bất chợt bật cười vì nhớ trước đây có đọc đâu đó nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đi tìm mua cái “phong linh”, người bán hàng đưa ngay cho cái phone-link không có bà con chi với cái định mua. Cũng là kỷ niệm.

Giã từ Bà Nà. Giã từ “đường lên tiên cảnh”. Chắc hai chàng Lưu Nguyễn khi rời chốn Bồng Lai về đến cõi tục cũng tiêng tiếc thế này là cùng. Không ai bảo ai hẹn năm sau lại lên Bà Nà, nhưng sẽ lên vào mùa xuân để ngắm đào chuông.

C.D.T