Nguyễn Đình An người luôn đau đáu về lòng dân
Có thể tiếp cận cuộc đời và sự nghiệp của anh Nguyễn Đình An từ nhiều góc độ khác nhau. Trước hết anh Nguyễn Đình An là một nhà giáo tài hoa giảng dạy văn chương ở các trường sư phạm - làm thầy của những người thầy. Nửa đầu thập niên 1950, anh đã cầm phấn đứng trên bục giảng Trường Sư phạm sơ cấp tại Khu học xá Nam Ninh tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, sau về nước dạy học ở Trường Sư phạm sơ cấp rồi Trường Sư phạm trung cấp ở Hà Nội. Từ đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, anh Nguyễn Đình An còn là người phụ trách bồi dưỡng đội tuyển của Hà Nội dự thi chọn học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc - nhà viết kịch Lưu Quang Vũ cũng từng được học anh ở lớp bồi dưỡng này. Có thể nói đời anh Nguyễn Đình An luôn gắn bó với nghề dạy học. Ông cụ thân sinh ra anh là một thầy giáo, em trai anh là một thầy giáo và vợ anh - chị Phạm Lê Minh Hoan cũng là một cô giáo; sau năm 1975 có một thời gian anh tham gia lãnh đạo ngành giáo dục tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (anh Nguyễn Đình An là Phó Trưởng ty Giáo dục tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng từ năm 1975-1977).
Năm 1965, khi quân viễn chinh Mỹ vừa mới đổ bộ vào Đà Nẵng, thầy giáo Nguyễn Đình An đứng trước sự lựa chọn giữa hai con đường: Hoặc là tiếp tục công tác ở Sở Giáo dục Hà Nội và có nhiều khả năng sẽ được chọn cử đi học sau đại học ở Liên Xô hay Đông Âu, hoặc là vào chiến trường chia lửa với quê nhà, và anh đã chọn con đường thứ hai. Tiếng gọi thôi thúc giục giã thiêng liêng của miền Nam và của đất Quảng thân yêu khiến anh dẫu rất yêu nghề vẫn phải đành rời xa bục giảng, phải đành tạm biệt những học sinh giỏi văn thương quý và cả người vợ sắp cưới của mình để lên đường vào Quảng Đà - một chiến trường được xem là gian khổ và ác liệt vào bậc nhất khu Năm lúc bấy giờ. Trên đất Quảng quê hương trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ, anh cầm bút thay cầm súng, trở thành phóng viên báo Cờ Giải Phóng - một tờ báo mà theo anh là sự tác nghiệp không hề giống bất cứ tờ báo nào trên thế gian này. Những tháng ngày làm báo giữa chiến trường đầy bom đạn đã tạo cho anh một bút lực mạnh mẽ đầy bản lĩnh. Điều này giải thích vì sao sau này tuổi đã cao - thất thập cổ lai hy - mà bút lực của anh vẫn dồi dào, những bài viết của anh Nguyễn Đình An trên báo Đà Nẵng vào các thập niên 2000, 2010 vẫn luôn có lửa, vẫn luôn tràn đầy nhiệt huyết.
Anh Nguyễn Đình An là một nhà nghiên cứu văn hóa đồng thời là một nhà hoạt động thực tiễn xuất sắc trên lĩnh vực văn hóa, từng đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá của tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng gần mười năm, từ năm 1977 đến năm 1986. Chính lao động nhà giáo và lao động nhà báo đã đưa anh đến với văn hóa, thâm nhập vào văn hóa, từ đó gắn bó cùng văn hóa và trở thành con người của văn hóa. Một con người của văn hóa - theo tôi đó là cách diễn đạt phù hợp nhất để nói về anh Nguyễn Đình An. Việc Hội An trở thành di sản văn hóa thế giới trước hết là nhờ tầm nhìn và cách nghĩ của ông Hồ Nghinh với tư cách là người đứng đầu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, nhưng Hội An trở thành di sản văn hóa thế giới cũng còn nhờ vào công sức vận động thuyết phục của Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nguyễn Đình An (anh Nguyễn Đình An là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng phụ trách văn hóa - xã hội từ năm 1986 đến năm 1995). Anh sinh ra ở Hội An và do vậy mà am hiểu văn hóa Hội An rất tường tận. Người viết bài này đã cùng anh Nguyễn Đình An nghiên cứu đặc trưng văn hóa Hội An và bao giờ anh cũng đưa ra những ý tưởng sâu sắc đầy trải nghiệm. Là một con người của văn hóa nên anh Nguyễn Đình An luôn tỏ ra ưu tư lo lắng về việc Đà Nẵng từng thiếu cân đối giữa đầu tư phát triển kinh tế với đầu tư phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội…
Tuy nhiên theo tôi còn có thể tiếp cận cuộc đời và sự nghiệp của anh Nguyễn Đình An với tư cách một người luôn đau đáu về lòng dân - anh từng là tác giả của một cuốn sách do Nhà xuất bản Đà Nẵng in cách đây hai mươi năm, có nhan đề Lòng dân - Ngày ấy… bây giờ. Là đương kim Chủ tịch danh dự Hội Khoa học Lịch sử thành phố Đà Nẵng (anh Nguyễn Đình An được bầu giữ chức Chủ tịch danh dự Hội Khoa học Lịch sử thành phố từ năm 2011 đến nay), anh hiểu rất rõ rằng lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh: Nếu làm mất lòng dân, không được nhân dân ủng hộ thì thành cao hào sâu cũng không thể cứu được đất nước khỏi rơi vào tay ngoại bang, cứu chế độ cai trị đương quyền không bị sụp đổ. Chẳng hạn vào đời nhà Hồ, thành nhà Hồ ở Tây Đô Thanh Hóa rất hoành tráng nhưng cũng không thể nào ngăn được vó ngựa quân Minh dày xéo Tổ quốc hàng chục năm trời, bởi nhà Hồ đã không xây dựng được thế trận lòng dân - một yếu tố sống còn như Hồ Nguyên Trừng con trai Hồ Quý Ly từng lo ngại: “Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”. Ý kiến của Hồ Nguyên Trừng được sử thần Ngô Sĩ Liên đánh giá cao: Mệnh trời là ở lòng dân. Câu nói của Trừng hiểu được điều cốt yếu đó. Không thể vì cớ họ Hồ mà bỏ câu nói của Trừng được[1]. Tất nhiên nói vậy không có nghĩa là tay không cũng có thể được bắt giặc, không có nghĩa là không cần nỗ lực để tạo nên sự đồng hành giữa sức mạnh của lòng yêu nước - sản phẩm của thế trận lòng dân - với sức mạnh của vũ khí hiện đại - Thánh Gióng phải có con ngựa sắt, An Dương Vương phải có chiếc nỏ thần, Lê Lợi phải có lưỡi gươm thần…
Là một người luôn đau đáu về lòng dân, anh Nguyễn Đình An luôn tìm cách để nói lên tiếng nói của người dân. Vì thế mà trong các kỳ họp Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng, mỗi năm ít nhất hai lần, với tư cách Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố (anh Nguyễn Đình An là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng từ năm 1995-1997 và là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Đà Nẵng từ năm 1997-2004), anh đã đọc bằng cái giọng Bắc rất chuẩn hàng chục bài phát biểu sôi nổi lôi cuốn đầy thuyết phục, và qua đó nói thay cho đông đảo cử tri về sự đồng thuận xã hội đối với nhiều chủ trương chính sách và quan trọng hơn là về nỗi bức xúc chính đáng trước những thiếu sót bất cập trong quá trình thực thi chủ trương chính sách. Là một người luôn đau đáu về lòng dân, anh luôn suy nghĩ nghiền ngẫm về vai trò của đội ngũ cán bộ Mặt trận nói riêng, đội ngũ cán bộ vận động quần chúng nói chung. Anh thường nói với người viết bài này rằng lâu nay ta vẫn nói người làm công tác dân vận là chiếc cầu nối giữa Đảng với Dân, giữa chính quyền với nhân dân, nhưng điều quan trọng là người làm công tác dân vận phải thực sự làm tốt chức năng là chiếc cầu nối, nghĩa phải biết nhìn về cả hai phía của cùng một chiếc cầu để mà vận động. Theo quan sát của anh, chiếc cầu nối này trong thực tế mới chỉ thông suốt, mới chỉ khởi sắc ở cái chiều từ trên chính quyền xuống tới nhân dân, tức là mới làm cho nhân dân quán triệt, đồng thuận, hưởng ứng làm theo các chủ trương của chính quyền; còn cái chiều thứ hai của chiếc cầu nối - tức là chiều từ dưới quần chúng nhân dân lên đến chính quyền, làm cho cấp trên thấu hiểu và giải quyết thỏa đáng các nguyện vọng của nhân dân thì không phải không làm nhưng nhìn chung hoặc là làm chưa đúng mức, chưa mấy mặn mòi với việc ghi nhận và phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân…
*
Con người luôn đau đáu về lòng dân ấy giờ đây đã về với cõi vô cùng. Bài viết này như một nén hương lòng thắp lên để tưởng nhớ và tri ân anh, anh Nguyễn Đình An kính mến!
B.V.T
[1] Theo Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, Quyển 8, tờ 49 b), tr. 212