Kỷ niệm 40 năm ngày mất nhà văn-liệt sĩ DƯƠNG THỊ XUÂN QUÝ (1969-2009): Dương Thị Xuân Quý cuộc đời và trang viết
Trong những văn nghệ sĩ hy sinh tại chiến trường miền
Dương Thị Xuân Quý xuất thân trong một dòng tộc trí thức, có nhiều gắn bó với cách mạng và học thuật. Ông nội là cụ Dương Trọng Phổ, người vận động tích cực cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, bị đày ra Côn Đảo cùng Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh năm 1908; cha là Dương Tự Quán vừa dạy học vừa viết báo; bác ruột là cụ cử Dương Bá Trạc, một trí thức yêu nước trong phong trào Duy Tân, cũng bị đày ra Côn Đảo; bác ruột nữa là nhà nghiên cứu văn học uyên thâm Dương Quảng Hàm. Chị cũng là con chú con bác với họa sĩ Dương Bích Liên,... Sớm bộc lộ năng khiếu và sở trường văn chương, do đó , sau khi theo học khóa báo chí do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức, chị về làm phóng viên báo Phụ Nữ Việt
À ơi ! Dù cho bão nổi mưa sa
Nghệ An Xô Viết, vẫn là Nghệ An …”
Hay giữa hai lần địch ném bom, vẫn nhận ra “ ánh trăng trong trẻo như một lớp men vàng mỏng tráng lên mặt đường…Vượt lên trong mưa, giọng nữ đồng ca xen với những tiếng hát nam trầm ấm vọng tới bên chúng tôi:
Đừng mong vào nơi đây
Hỡi quân thù khốn kiếp…”
( Đêm yên tĩnh )
Những bạn viết của chị như Hoàng Thị Minh Khanh, Phan Thị Thanh Nhàn, Xuân Quỳnh, Nguyễn Thị Ngọc Tú đều có chung nhận xét về bạn văn của mình, đó là một mẫu người trong sáng và giản dị, trung thực và xông xáo nhưng cũng rất cứng cỏi và quyết đoán, không ngại khó ngại khổ, nhân hậu với cuộc đời.
Cuộc chiến càng ngày càng dữ dội, ý thức được trách nhiệm của người công dân, lại là người cầm bút, chị viết đơn tình nguyện vào
Có thể nói, qua những trang nhật ký, người đời sau nhận rõ chân dung một thế hệ, đó là những gương mặt sáng trong, bình dị, tận cùng đau thương và cũng tận cùng hạnh phúc. Mãi mãi những dòng chị viết cho đứa con chưa đầy ba tuổi , với bao hy vọng, với bao gửi gắm, tràn đầy yêu thương… đã là một trong những trang đời tuyệt vời về tình mẹ con mà chị gửi lại mai sau. Rất có lý để Nguyên Ngọc viết : “Quý chết ở vùng sâu, lúc ấy anh em chúng tôi , đồng nghiệp, đồng chí của chị, đều ở xa. Không ai được nghe lời nói cuối cùng của chị khi ngã xuống. Riêng tôi, tôi cứ tin lời cuối cùng của chị là một tiếng gọi: - Con !...”
Gần ba tháng ở các cung đường Trường Sơn, chị nếm trải tất cả những gian khổ của người lính. Nhật ký ngày 29-4-1968, lúc 6 giờ tối, Trường Sơn, trạm 20, ghi: “Hôm nay, mình đã qua một chặng đường ghê gớm nhất trong chiến trường A…Những dốc đá tai mèo lởm chởm hiện ra. Dốc đứng, hoàn toàn đạp trên đá…Ngày hôm nay, mình đã qua một chặng đường nguy hiểm. Vừa đi được 15 phút thì máy bay đến, chặng đường mình đi bị chúng thả bom bi. Bom bi rơi vào đúng trạm trú quân mình vừa ra khỏi và bom bi đánh vào đội hình đoàn bộ đội đi trước mình. Máu chảy đỏ lòm đường đi. Một chỗ khác, ngày 16-5-1968 : “trên đường đi hái rau, ở chân đồi mình gặp một ngôi mộ mới của chiến sĩ ta…Anh không có bia ghi tên, tuổi, ngày hy sinh. Mộ chí của anh chỉ có hai bông hoa trắng”. Ngày 12-6-1968, trạm 67, Kông Tum: “Ruồi vàng ghê gớm quá. Chân mình sần lên những nốt đỏ. Đêm qua mình ngứa suốt cả bàn chân…Sáng nay thấy từ đầu gối trở xuống, bao nhiêu nốt đỏ mẩn lên như ghẻ”.
Ngày 14-6 -1968, Xuân Quý về đến Quảng
“ Xem chia ly như một sự hy sinh đẹp đẽ và hạnh phúc”
Trong thư gửi nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn , ngày 5-11-1968, chị ghi lại đoạn bói Kiều:
Vì ai ngăn đón gió đông
Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi
Trùng phùng, dù hoạ, có khi
Thân này thôi thế còn gì mà mong
Đã sinh ra số long đong
Còn mong lấy kiếp má hồng được sao !
Có phải đấy là điềm dự báo không ! Mấy tháng sau, khi về vùng đông Duy Xuyên công tác, trong trận càn quét tàn bạo của lính Nam Triều Tiên, chị hy sinh, đúng 28 tuổi đời. Mãi đến năm 2006, tròn 37 năm sau, gia đình và đồng đội mới tìm được hài cốt của chị và cải táng nơi chị đã nằm lại với đất lành Duy Xuyên.
Những trang văn của chị để lại không nhiều, cũng mỏng như đời chị. Song, điều chúng ta luôn nhớ đến chị, đó là tấm lòng nhân hậu, kiên trung của chị, của một thế hệ như chị, không tiếc máu xương, vì độc lập tự do cho dân tộc.
Bốn mươi năm đã trôi qua, thịt xương chị đã hòa vào đất mẹ xứ Quảng, nơi mà chị đã đến, sống và vĩnh viễn ở lại. Những nhân vật ngoài đời và trong văn mà chị hằng gặp và yêu thương, qua cuộc chiến tranh này, về đâu, ở đâu , hỡi những đóa “ hoa rừng” (2) của Dương Thị Xuân Quý !
H.V.H
(1) Những đoạn trích trong bài viết rút từ Dương Thị Xuân Quý, Nhật ký-Tác phẩm, NXB Hội Nhà văn, 2007
(2) Tên một truyện ngắn của Dương Thị Xuân Quý
Đà Nẵng, tháng 2-2009