Giọng Quảng Nam và những câu hỏi còn bỏ ngỏ

06.08.2022
Võ Văn Thắng

Giọng Quảng Nam  và những câu hỏi còn bỏ ngỏ

(Đọc sách "Nguồn gốc và sự hình thành giọng Quảng Nam", tác giả: Andrea Hoa Pham, Nxb Đà Nẵng, 2022)

1. "Giọng núa Quảng Nôm" - từ cảm nhận của người bình thường đến cảm nhận của nhà ngôn ngữ học.

Có rất nhiều chuyện vui và các bài viết về sự khác biệt của giọng nói Quảng Nam so với các vùng khác. Người bình thường chỉ cảm thụ bằng thính giác và viết ra bằng bảng chữ cái, nhưng người nghiên cứu ngôn ngữ thì dùng máy ghi âm, phân tích, trừu tượng hóa thành các âm vị và dùng các ký hiệu đặc biệt để ghi. Ngành ngữ âm học ngày nay là một ngành có nhiều kỹ thuật và thuật ngữ riêng đến nỗi các tài liệu chuyên môn về ngữ âm trở nên xa lạ với đại chúng, vốn là những người mong nhận được các kết luận của nhà ngôn ngữ học hơn là đọc các dữ liệu miêu tả quy luật phức tạp bên trong của ngôn ngữ.

Tuy nhiên, để giải thích cho ra nhẽ sự khác nhau của tiếng nói các vùng miền (phương ngữ) và đặc biệt giải thích nguyên nhân của sự khác nhau đó, dù muốn trình bày đơn giản nhất, cũng không thể tránh được việc miêu tả, phân tích bằng các kỹ thuật chuyên ngành. Cuốn sách Nguồn gốc và sự hình thành giọng Quảng Nam, tác giả Andrea Hoa Pham[1] là một trường hợp như thế.

Cuốn sách gồm 8 chương, trong đó dành 3 chương để miêu tả hệ thống ngữ âm - âm vị của giọng Quảng Nam và một số thổ ngữ ở Hà Tĩnh và Thanh Hóa có tương quan với đặc điểm ngữ âm của giọng Quảng Nam.

Tác giả bình luận về cách miêu tả hệ thống âm vị và vần Quảng Nam của các nhà nghiên cứu đi trước, đồng thời đưa ra một cách miêu tả của tác giả. Ngoài đặc trưng phân bố của nguyên âm trong âm tiết, tác giả trình bày các biến chuyển vần theo một số nguyên tắc như đồng hóa, dị hóa; nguyên tắc giản hóa, tiết kiệm được dùng để giải thích nguyên nhân một số biến đổi.

Andrea Hoa Pham phân tích kỹ trường hợp nguyên âm /ɑ/ trong giọng Quảng Nam, là một nguyên âm rất khác lạ so với các phương ngữ khác. Nguyên âm này viết bằng chữ a trong các từ cá, lạ, bạn, được xác định là "một nguyên âm thấp, dòng sau, không tròn môi" (tr 101). Tác giả tìm hiểu quy luật mà nguyên âm đặc biệt này đã được tạo ra bằng cách truy tìm những trường hợp tương quan ở thổ ngữ các vùng khác. Tại Hà Tĩnh, tác giả nhận ra thổ ngữ Kẻ Chay chính là tiền thân của nguyên âm /ɑ/ Quảng Nam. Từ kết quả quan sát thổ ngữ Kẻ Chay và làng Hến ở Hà Tĩnh, tác giả đi đến một cách lý giải chuyên môn về sự ra đời của nguyên âm /ɑ/ trong giọng Quảng Nam như sau:

"Rất nhiều khả năng là /ɑ/ trong giọng Hà Tĩnh được tách ra từ nguyên âm /a/ dòng giữa và để lại chỗ trống của /a/ trong các âm tiết mở. Khoảng trống này tạo nên thế mất cân bằng của các nguyên âm dòng giữa. Khoảng trống âm vị này sẽ được lấp trở lại khi các thổ ngữ Bắc Trung Bộ theo các di dân buổi đầu tiên vào Trung Bộ. Ở phương ngữ mới (Quảng Nam), các nguyên âm tiếp tục biến đổi, điều chỉnh, tách ra, tạo thế cân bằng trở lại trong không gian âm vị, và một nguyên âm mới /ɑ/ như trong ba, má, sả được hình thành… Sự ra đời của  /ɑ/ trong giọng làng Hến và giọng Quảng Nam là một minh họa tuyệt vời của quá trình biến đổi âm thanh, từ từ và theo từng giai đoạn" (tr 173-174)[2].

 Cuốn sách dành hẳn một chương để tìm hiểu lịch sử di dân tại miền Trung Việt Nam trong 500 năm qua. Những thông tin có được nhờ tổng hợp các dữ liệu sử học đã định hướng cho tác giả tiếp tục tìm kiếm sợi dây liên quan đến giọng Quảng Nam ở các thổ ngữ tỉnh Thanh Hóa. Tuân thủ chặt chẽ các phương pháp của ngành ngữ âm học, Andrea Hoa Pham đã khảo sát, miêu tả thổ ngữ làng Thạc, huyện Thọ Xuân. Thổ ngữ này cho thấy mối liên quan mật thiết của cách phát âm nguyên âm viết bằng chữ a trong giọng Quảng Nam với giọng Thanh Hóa.

Từ kết quả phân tích, so sánh hệ thống ngữ âm - âm vị của Quảng Nam với các thổ ngữ ở Hà Tĩnh và Thanh Hóa, tác giả đi đến kết luận:

"Những chứng cớ này cho thấy một cách khó chối bỏ mối quan hệ chặt chẽ ở nhiều phương diện giữa giọng Thanh Hóa, Hà Tĩnh và giọng Quảng Nam. Giọng Quảng Nam đã được xây dựng trên một cái nền chung là giọng Thanh Hoá, và thu nhận một ít nguyên liệu độc đáo từ giọng Nghệ Tĩnh". "Cùng với hiện tượng di dân lớn từ thế kỷ thứ 15, những chứng cớ này cho phép kết luận là từ Thanh Nghệ Tĩnh, những ông tổ của người Quảng Nam đã đem theo những chất liệu này trong giọng nói của mình khi vào lập nghiệp ở quê hương mới" (tr 256, 277).

 

2. Sự hình thành giọng Quảng Nam và những giải thích khác

Chương 6 của cuốn sách bình luận những giải thích khác về sự hình thành giọng Quảng Nam, trong đó chủ yếu là trả lời câu hỏi "liệu người Chăm có thể ảnh hưởng lên giọng nói Quảng Nam không" (tr 216). Giả thuyết về nguồn gốc của giọng Quảng Nam từ việc "người Chăm nói tiếng Việt" đã được nhiều người biết đến qua cuốn sách "Có 500 năm như thế" của nhà văn Hồ Trung Tú[3]

Khi cuốn sách của Hồ Trung Tú mới ra đời, Andrea Hoa Pham đã có bình luận: "Có 500 năm như thế” là một bằng chứng đẹp về cái thao thức bất tận trong việc đi tìm sự thật, bằng một thái độ viết tâm huyết, nghiêm túc, được nâng đỡ bởi một tâm hồn lãng mạn, bay bổng"[4]. Đồng thời cũng lưu ý, "đây cũng chỉ là suy luận để khởi đầu, như anh công nhận. Cần tìm ra mối liên quan giữa các yếu tố ngôn ngữ hoặc các yếu tố ngoài ngôn ngữ đã thúc đẩy giọng Quảng thay đổi, ‘đi xa’ đến thế so với giọng ban đầu của những người Việt di dân, để cho ra một hệ thống giọng nói như hiện nay, mà không phải là một hệ thống khác. Cái quan tâm trước hết của các nhà ngữ học không phải là vì sao nó thay đổi, mà thay đổi như thế nào"[5].

Đến nay, sau nhiều năm tìm hiểu về giọng Quảng Nam, trong đó có xem xét vai trò của tiếp xúc Chăm - Việt, Andrea Hoa Pham cho biết:

"Cho đến nay, ngoài các từ vay mượn từ tiếng Chăm, chưa hề có một tài liệu ngữ học nào chỉ ra hoặc đưa ra chứng cứ cho thấy phát âm của người Chăm đã ảnh hưởng đến phát âm tiếng Việt, (...) việc người Chăm nói tiếng Việt không đủ sức tạo ra thay đổi gì đặc biệt trong tiếng Việt, và càng không có thay đổi nào mạnh đến mức làm phá vỡ hẳn hệ thống như ở giọng Quảng Nam (…) Những ý kiến cho rằng giọng Quảng Nam có diện mạo phát âm như chúng ta thấy ngày nay là do ảnh hưởng từ việc tiếp xúc giữa người Chăm và người Việt hoàn toàn không có chứng cứ gì về mặt ngôn ngữ và lịch sử " (tr 219, 255).

Thật ra, các phân tích trong cuốn sách của Andrea Hoa Pham lần này cũng chỉ dựa trên ngữ âm Quảng Nam đầu thế kỷ 20 đến nay và so sánh với tiếng Chăm Haroi và Chăm Phan Rang cận đại, là hai phương ngữ Chamic đã biến đổi nhiều trong thời gian gần đây, nên kết quả là "không tìm thấy những đặc trưng kỳ lạ gì trong giọng Quảng Nam mà có dây mơ rễ má gì với tiếng Chăm"; tác giả cũng tự nhận xét rằng đây là cách làm "khiên cưỡng và hời hợt"  trong điều kiện thiếu dữ liệu (tr 228).

Tác giả có dẫn cuốn sách  của Thurgood[6], trong đó có  phân tích quá trình chia tách các phương ngữ thuộc hệ Tiền - Chăm (proto-Chamic).

Các phân tích của Thurgood với mô hình như trên (1999: 42-46),  cho ta hình dung sự tồn tại của một "tiếng Chăm phía bắc" (Northern Cham) thuộc vào nhánh phương ngữ khác với "tiếng Chăm Phan Rang" và "Chăm Haroi". Tiếng Chăm phía bắc bị chia tách thành hai phương ngữ gắn liền với thời điểm cuộc tấn công của Lê Hoàn vào Indrapura cuối thế kỷ 10, một số người Chăm đi ra Hải Nam tạo ra phương ngữ Chăm Hải Nam (Tsat) và số người ở lại hình thành phương ngữ Roglai bắc (Northern Roglai). Như vậy, sự tiếp xúc ngôn ngữ Chăm - Việt tại vùng Quảng Nam nếu có điều kiện đối chiếu với phương ngữ "Chăm phía bắc" biết đâu lại tìm thấy một "dây mơ rễ má" nào đó.

Về cơ tầng Chăm trong thổ ngữ miền Trung, GS-TS Nguyễn Văn Lợi và nhóm chuyên gia ngữ âm học của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam đã khảo sát ở Cao Lao Hạ, Quảng Bình, và đưa ra kết luận:

"Khảo sát hệ thống thanh điệu thổ ngữ Cao Lao Hạ, trên bình diện đồng đại cũng như lịch đại, chỉ ra rằng: trong thổ ngữ Cao Lao Hạ vừa có những đặc điểm tương đồng, vừa có những nét khác biệt so với các thổ ngữ, phương ngữ tiếng Việt ở một phía và so với tiếng Chăm, ở một phía khác. Điều đó cho phép chúng ta đi đến nhận định rằng: trong tiến trình phát triển lịch sử của thổ ngữ này, có lẽ đã có sự tiếp xúc giữa cư dân nói ngôn ngữ Proto Việt - Mường và cư dân nói ngôn ngữ Proto - Chăm. Những nét tương đồng giữa Cao Lao Hạ và Chăm trong sự khác biệt với tiếng Việt, chỉ ra rằng phải chăng trong thổ ngữ này có một cơ tầng Chăm"[7]

Andrea Hoa Pham cũng đưa ra một nhận xét ở góc độ lịch sử để hoài nghi về vai trò tiếp xúc Việt - Chăm trong việc hình thành giọng Quảng Nam:

"Ở Quảng Nam đầu thế kỷ thứ 16, người Chăm lớp bị giết, lớp bỏ chạy về Chiêm Thành, ai còn sót lại chắc hẳn phải dè dặt che giấu thân phận, và có lẽ sống quây quần khép kín trong cộng đồng của họ. Người Chiêm dân cư vốn đã thưa thớt, sau những cuộc tàn sát ấy thì lại càng ít đi. Cộng thêm những lệnh cấm đoán, con số ít ỏi còn lại đó liệu có mấy phần cơ hội để cộng cư thân mật? Trong hoàn cảnh đó, việc tiếp xúc với người Việt thường xuyên và cần thiết đến mức nào mà đến nỗi có thể thay đổi hẳn bộ mặt của giọng nói người Việt ở Quảng Nam? (tr 241).

Tuy nhiên, nhận xét này xuất phát từ cách nhìn nhận về tình hình người Chăm theo các sử liệu truyền thống quen thuộc. Những kết quả nghiên cứu mới cho thấy số người của vương quốc Champa ở lại khu vực bắc và nam đèo Hải Vân, từ sau năm 1306, không phải quá ít ỏi và cô lập như chúng ta thường nghĩ do bị ám ảnh bởi các sử liệu cũ. Đó là các tư liệu như văn bản Thủy Thiên của họ Bùi, làng Câu Nhi, Hải Lăng, Quảng Trị[8], như Phủ Tập Quảng Nam Ký Sự của Bùi Tá Hán[9], như Đà Sơn Đà Ly nhị xã Phan tộc phổ chí ở Đà Nẵng[10]; như Địa bạ triều Nguyễn ghi nhận một "man sách" ở ven sông Cẩm Lệ, Đà Nẵng cùng nhiều "man sách" ở miền Trung thế kỷ 19[11]; và ngày càng có nhiều cuộc khảo sát cho thấy đã có những người phụ nữ Chăm che giấu thân phận qua việc làm vợ, làm mẹ trong các gia đình có người đàn ông Việt di cư từ phía bắc, hoặc người Chăm đổi tên họ để "Việt hóa". Những dữ liệu dân tộc học, xã hội học mới có thể khiến cho cách nhìn cũ về sự cộng cư Chăm - Việt cần phải được đánh giá lại.

 

3. Cội nguồn nguyên âm [ɑ ] trong thổ ngữ Hà Tĩnh, Thanh Hóa và Quảng Nam

Sau khi đã thấy được dấu vết của giọng Quảng Nam trong các thổ ngữ Hà Tĩnh, Thanh Hóa, mọi người có thể sẽ có một thắc mắc như chính tác giả:

"Một câu hỏi có thể đặt ra là vì sao những dấu vết của nguyên âm  /ɑ/ lạ tai và một số chuyển hóa vần trong giọng Quảng Nam hiện nay chỉ còn tìm thấy ở vài thổ ngữ nhỏ ở Nghệ An, Thanh Hóa mà không phải là phổ biến ở các giọng nói ấy?" (tr 211).

Đây là một câu hỏi thú vị, và tác giả đưa ra câu trả lời:

"Có thể rằng những vần lạ lùng kia ngày xưa là đặc điểm khá chung ở giọng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Những di dân đầu tiên vào đất Quảng Nam đã đem theo giọng nói ấy. Sau khi bị tách rời khỏi quê hương cũ một thời gian dài, nhất là trong thời kỳ Trịnh -  Nguyễn phân tranh, một số đặc trưng ấy đã hòa nhập vào giọng Quảng Nam hiện đại và được giữ lại cho đến nay. Trong khi đó ở quê nhà, giọng nói vẫn không ngừng thay đổi. Một số vùng, nhất là quanh các trung tâm tỉnh, qua tiếp xúc với các phương ngữ khác, nhiều giọng địa phương đã rũ bỏ dần những nét quá đặc trưng để gần với giọng "chuẩn" Bắc Bộ hơn. Giọng Quảng Nam vô tình trở thành một cổ viện, lưu giữ một số dấu vết đặc biệt của giọng Thanh - Nghệ xưa " (tr 211).

Ở chương kết luận, tác giả cũng đặt ra "những câu hỏi còn bỏ ngỏ":

"Nếu gốc gác của nguyên âm này là từ một phương ngữ nào đó của tiếng Việt ở vùng Bắc Trung Bộ hoặc thậm chí Bắc Bộ, thì liệu đó có phải là sự tách ra của một âm vị nào đó trong quá trình hình thành một âm vị mới trong tiếng Việt ? Hay nguyên âm /ɑ/ được vay mượn từ một ngôn ngữ nào đó trong nhóm người nói một thứ tiếng Vietic, sống chung tiếp xúc với người Việt, đặc biệt là ở vùng Hà Tĩnh, Nghệ An, xa đồng bằng và ven biển?" (tr 280).

Với cách đặt câu hỏi như trên, liệu có thể nêu vấn đề theo chiều ngược lại, liệu nguyên âm [ɑ ] lạ tai đó đã sản sinh từ chiếc nôi Indrapura (Quảng Nam) từ thế kỷ 10 khi phương ngữ Chamic ở đây tiếp xúc mạnh mẽ với nhánh Katuic, và rồi được một nhóm di dân "bất đắc dĩ" nào đó từ Indrapura đi ra ở vùng Hà Tĩnh, Thanh Hóa? Đến nay, dấu vết chỉ còn bảo lưu ở vài làng nhỏ ở Hà Tĩnh, Thanh Hóa, trong khi ở quê hương nguồn gốc của nó, trong quá trình tiếp xúc với các đợt di dân từ phía bắc vào, đã duy trì, biến chuyển và trở thành một đặc trưng phương ngữ kỳ bí của cả vùng Quảng Nam rộng lớn?

Con đường của nguyên âm [ɑ] từ Indrapura đi ra bắc đèo Ngang thoạt nghe có vẻ ít hợp lý hơn là chiều ngược lại, nhưng không phải là không có khả năng xảy ra[12], bởi lẽ, khả năng "nguyên âm /ɑ/ được người Việt ở vùng Hà Tĩnh, Nghệ An vay mượn từ một ngôn ngữ nào đó trong nhóm người nói một thứ tiếng Vietic" hoàn toàn tương tự khả năng "được những người Champa ở Indrapura vay mượn ở một ngôn ngữ nào đó trong nhóm Katuic". Mối quan hệ tiếp xúc và tác động của ngôn ngữ Mon-Khmer (bao gồm Katuic) lên ngôn ngữ Chamic đã xảy ra rất sớm; thậm chí từ trước thế kỷ 9, đã tìm thấy dấu vết những tác động đến mức làm rơi rụng một số tiếp tố trong tiếng Chamic[13].

Về lịch sử, dân cư ở vùng Thanh Nghệ Tĩnh (châu Hoan, châu Ái xưa) đã có mối quan hệ lâu đời với dân cư phía nam đèo Ngang từ trước khi nước Đại Việt ra đời. Đầu thế kỷ 8, khi Mai Thúc Loan ở châu Hoan nổi dậy chống nhà Đường, theo ghi chép trong sử Trung Hoa, ông đã liên kết với người Lâm Ấp[14], Chân Lạp, huy động được số quân lên đến bốn mươi vạn người[15]. Mai Thúc Loan xưng đế mười năm thì bị quân nhà Đường tiêu diệt, "người Lâm Ấp, người Chân Lạp cũng bị người Đường giết"[16]. Năm 989, xảy ra sự kiện "Tiến Lộc làm quản giáp, được lệnh thu thuế theo hai châu Hoan, Ái. Tiến Lộc dùng người hai châu ấy làm phản, theo về Chiêm Thành, nhưng Chiêm Thành không nhận. Vua nghe tin tự đem quân đuổi bắt Tiến Lộc và chém đi; người hai châu bị giết không biết bao nhiêu mà kể"[17]. Người Chiêm Thành cũng đã gia nhập vào dân cư bắc đèo Ngang trong nhiều thời điểm[18], tạo nên một cộng đồng bị gán ghép là "ăn ở hai lòng", "làm phản" (đối với triều đình phía Bắc lúc bấy giờ)1.  Ở thị xã Cửa Lò, Nghệ An đến nay vẫn còn một nhà thờ tộc Chế (gốc Chiêm Thành) được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh vào năm 20192.  Và nhiều di tích giếng kiểu Champa đã được ghi nhận ở Hà Tĩnh, ra tận vùng giáp giới Nghệ An3.

Biết đâu, như PGS-TS Andrea Hoa Pham nói ở những trang cuối cùng của tập sách, rằng "Nếu còn tiếp tục tìm kiếm, có thêm những tài liệu cần thiết, biết đâu chúng có thể tiết lộ thêm những bất ngờ khác, thậm chí có thể thay đổi giả thuyết hiện nay" (tr 282).

 

4. Và "Giọng núa Quảng Nôm" - từ cảm nhận của nhà ngôn ngữ học này đến cảm nhận của nhà ngôn ngữ học khác

Cùng quan điểm "không có giả thuyết khoa học nào là giả thuyết cuối cùng", PGS-TS Hoàng Dũng đã phát biểu tại buổi Ra mắt sách do Nhà xuất bản Đà Nẵng tổ chức ngày 9/7/2022, cuốn sách "Nguồn gốc và sự hình thành giọng Quảng Nam" của Andrea Hoa Pham là một công trình sử dụng phương pháp chuyên ngành ngữ âm học, đưa ra các chứng cứ tin cậy cho một giả thuyết về nguồn gốc giọng Quảng Nam, và là một chất "gây men" cho những ai quan tâm đến chủ đề thú vị này để tiếp tục tìm câu trả lời cho những câu hỏi còn bỏ ngỏ và để tiếp tục "cãi" (tranh luận).

Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Mỗi chúng ta, suy cho cùng, chả phải hàng ngày đã luôn đồng hành cùng các nhà ngôn ngữ học đó sao?4

V.V.T

 

[1] PGS, TS Ngôn ngữ học, Giảng dạy tại Khoa Ngôn ngữ, Văn học và Văn hóa, Viện Đại học Florida, Hoa Kỳ.

[2] Các câu in nghiêng có số trang kèm theo là trích nguyên văn trong sách Nguồn gốc và sự hình thành giọng Quảng Nam của Andrea Hoa Pham.

[3]  Công ty Sách Phương Nam xuất bản lần đầu năm 2011, Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh trao Giải thưởng Sách hay năm 2012 và đã được tái bản nhiều lần trong thời gian qua.

[4] https://tiki.vn/co-500-nam-nhu-the-p58709744.html, truy cập ngày 11/7/2022

[5]  https://hotrungtu.blogspot.com/2012/04/  truy cập ngày  11/7/2022

[6] Graham Thurgood, From Ancient Cham to Modern Dialects: Two Thousand Years of Language Contact and Change (Từ tiếng Chăm cổ đến phương ngữ hiện đại: Hai ngàn năm tiếp xúc và biến đổi ngôn ngữ), Haiwaii University Press, 1999.

[7] Nguyễn Văn Lợi, "Thanh điệu và vấn đề cơ tầng Chăm trong thổ ngữ Cao Lao Hạ" (Bố Trạch, Quảng Bình), Tạp chí của ĐHSP TP HCM, số 9 - 2006, tr 4 -21.

[8] Nguyễn Hữu Thông, Lê Đình Hùng, “Cư dân vùng Thuận - Hóa đầu thế kỷ XV qua văn bản "Thủy Thiên"”, Tạp chí Dân tộc học, số 2/2009, tr 49 -59.

[9]  Bùi Tá Hán, "Phủ tập Quảng Nam ký sự", trong Tư liệu thư tịch và di tích về nhân vật lịch sử Bùi Tá Hán, Sở VHTT Quảng Ngãi, 1996, tr 5- 32.

[10]  Võ Văn Thắng, "Một bản phổ chí nói về quan hệ Việt - Chàm", trong Việt Nam Học - Kỷ yếu Hội thảo quốc tế  lần thứ nhất, Hà Nội, 15-17/7/1998, tập V, Nxb Thế Giới, HN, tr 496 -504.

[11]  - Võ Văn Thắng (chủ biên), Di tích Chăm tại Đà Nẵng & những phát hiện mới, Nxb Đà Nẵng,tr 43-44.

    - Vũ Hùng, "Những man sách trong thế kỷ 19", trong Miền tháp cổ, Nxb Đà Nẵng, 2021, tr 82-94.

[12]  Trường hợp làng Mỹ Lợi (Thừa Thiên -Huế), nơi có giọng nói gần với giọng Quảng Nam, nhiều người nói là tổ tiên từ Thanh Hóa vào; nhưng cũng có người cho biết tổ tiên của họ có nhiều mẫu ruộng ở Duy Xuyên (Quảng Nam), nơi từng là một thủ phủ của Champa; đặt ra câu chuyện cần tìm hiểu thêm về con đường di chuyển dân cư hai chiều Nam - Bắc và mối liên quan đến lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Trao đổi cá nhân với PGS-TS Hoàng Dũng).

[13]  - Thurgood, Graham, sđd, tr 257.

- Sidwell, Paul. "The Mon-Khmer Substrate in Chamic: Chamic, Bahnaric & Katuic Contact", trong Seals XII: Papers from the 12th annual meeting of the Southeast Asian Linguistics Society 2002, The Australian National University, 2007, tr 13-28.

- Marc Brunelle, 2020, "The loss of affixation in Cham - Contact, internal drift and the limits of linguistic history". Trong sách Austronesian Undressed: How and why languages become isolating (David Gil và Antoinette Schapper biên tập). Amsterdam: John Benjamins, tr 97 - 118.

[14]  Lâm Ấp là tên gọi được sử Trung Hoa dùng để chỉ một vương quốc thành lập ở nam đèo Ngang từ cuối thế kỷ 2, tiền thân của Chiêm Thành (Champa).

[15]  Tân Đường Thư, Ngoại truyện, quyền 132. 開元初,安南蠻渠梅叔鸞叛,號黑帝,舉三十二州之眾,外結林邑、真臘、金鄰等國,據海南,眾號四十萬 (Âm Hán Việt:Khai Nguyên sơ, An Nam man cự Mai Thúc Loan bạn, hiệu Hắc Đế, cử tam thập nhị châu chi chúng, ngoại kết Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân đẳng quốc, cứ hải nam, chúng hiệu tứ thập vạn. Dịch quốc ngữ: Đầu niên hiệu Khai Nguyên, thủ lĩnh người man ở An Nam là Mai Thúc Loan làm phản, xưng hiệu là Hắc Đế,  huy động dân ba  mươi hai châu, bên ngoài liên kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân, chiếm cứ phía nam của biển, số người kể đến bốn mươi vạn).

[16]  Lý Tế Xuyên, Việt Điện u linh, Nxb Văn Học, HN, 2001, tr 148.

[17] Ngô Thì Sĩ, Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb Khoa học Xã Hội, 1997, tr 172.

[18] Trích Đại Việt sử ký toàn thư Đại Việt sử ký tiền biên:

- Năm 1040: người giữ trại Bố Chính của nước Chiêm Thành là Bố Linh, Bố Kha, Lan Đà Tinh đem bộ thuộc hơn trăm người sang quy phụ.

- Năm 1069: vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người.

- Năm 1123: người Chiêm Thành là bọn Ba Ty Bồ Đà La 30 người đến theo ta.

- Năm 1152: Người nước Chiêm Thành là Ung Minh Ta Điệp đến cửa khuyết xin mệnh cho làm vua nước ấy. Xuống chiếu cho Thượng chế Lý Mông đem hơn 5.000 người ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An sang Chiêm Thành lập Ung Minh Ta Điệp làm vua.

- Năm 1203: Vua nước Chiêm Thành là Bố Trì  bị chú là Văn Bố Điền  đuổi, nay đem cả vợ con đến ngụ ở cửa biển Cơ La, ý muốn cầu cứu (Cửa biển Cơ La/Kỳ La/Cửa Nhượng thuộc Hà Tĩnh) .