Thơ BÙI QUANG THANH

19.09.2011

Thơ  BÙI QUANG THANH

                         

  Nhà thơ Bùi Quang Thanh sinh năm 1950 tại Thị trấn Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Trước khi trở thành nhà thơ, nhà báo, ông là chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam, chiến đấu ở Tây Nguyên trong những năm 1971-1974.

   Bùi Quang Thanh từng công tác tại: Ngành giao thông vận tải Nghệ Tĩnh, Hội Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh, Tạp Chí Hồng Lĩnh, Cơ quan đại diện MT-TN Báo Bảo vệ pháp luật của Viện KSNDTC. Hiện nay sống và viết tại Đà Nẵng.

Ông được kết nạp: Hội viên Hội Văn Học Nghệ Thuật Hà Tĩnh (1992); Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam (2003); Hội viên Hội Nhà Văn Đà Nẵng (2005).

  TÁCPHẨM:
- Một thời sao lãng quên -Tập thơ (Hội VHNT Hà Tĩnh 1994).

 -Hạt đắng - Tập thơ (NXB Thanh Niên 1998).

- Đò dọc sông đêm - Tập thơ (NXB Hội Nhà Văn 2002).

- Ngọn gió dòng sông - Tập thơ (NXB Hội Nhà Văn 2003).

- Mật ong vàng lũng núi - Tập thơ chọn (NXB Hội nhà văn 2007).

- Nhiều tác phẩm đã được giới thiệu rộng rãi qua blogs: quangthanhbvpl  và Webs: buiquangthanh.com

Tạp chí Non Nước trân trọng giới thiệu với bạn đọc chùm thơ văn xuôi của nhà thơ Bùi Quang Thanh

 

           

                     Lời hương khói

                    

                                       Khúc 1 
         Trước khi lẫn vào thinh không khói bếp Mẹ nhen níu mãi vào rơm rạ. Giọt buồn cay xè mái lá. Cao rộng trời mây không gói nổi khôn cùng của kẻ ly hương.

          Mắt Mẹ mờ sau bụi bặm thời gian. Khói thành mây, nắng thành sương, lá vàng rưng rưng vườn cũ.

          Nón lá áo tơi treo chùng vách nhớ. Vòi hái cong, lưỡi liềm cong ngoéo một thuở ruộng đồng.

         Con đi. No tròn ba lô con cóc sau lưng. Hoa cỏ may găm đầy quần bộ binh đũng chấm ngang đầu gối.

                                      Khúc 2

         Mỗi quả thị vàng đều mơ thành Cô Tấm: Thảo thơm giặt giũ, bếp núc tương cà, lúng túng đánh rơi hài đêm hội dân ca.

         Gốc tre già dãi dầu bão giông, gió mưa quăng quật tơi bời vẫn khát khao mãi là thành lũy.

         Mẹ dâng hiến cho đời những gì mình có. Hạnh phúc được phân thân qua mỗi kỳ sinh nở, hạnh phúc được sẻ chia trong vụn vặt đời thường.

         Đôi vai gầy gánh trăm mùa lúa, xuyên vạn ngày sương, gánh cả thời con gái qua sông, Cha vào Vệ quốc quân, Mẹ chẳng để nhớ thương biến thành Tô Thị.

         Mẹ dạy: Chim có tổ, cáo có rừng. Mẹ đếm từng ngày kị ông, giỗ cố. Mẹ mòn lưỡi lừa cá xương bù giọt sữa kiệt khô trong bầu vú xanh gầy. Mẹ ngắm con tằm khôn lớn trên tay mà không dám chờ ngày tằm nhả tơ thành lụa.  

                                               Khúc 3

         Cơn sốt bất ngờ bắt con nằm lại, đêm lạc rừng khắc khoải tiếng từ quy. Cánh võng Tô Châu quây tròn tổ kén ủ con tằm chống những cơn run.

         Mấy quả dâu rừng chiều nao đồng đội hái, tê tê đầu lưỡi mềm lại bờ môi, lỗ thủng vô tình trên bọc võng xanh xanh một đốm sao trời. Là mắt Mẹ dõi tìm con chăng Mẹ? Giọt mắt khô hút bóng con về, đồng tử tia hình sao năm cánh, chập chờn cơn tỉnh, cơn mê...

         Đêm rừng già đơn lạnh. Gió ngàn ru lời Mẹ xa đưa. Đồng đội ơi! Sau giòn giã tiểu liên, trầm hùng đại bác, lộc xuân xanh chồi có khuất nẻo mòn xưa? Và Bình Minh - khi nhịp cầu nối lại, gương mặt Người sẽ rực rỡ nhường bao, đừng dồn hết hào quang soi mắt Mẹ, sau rạng ngời là diệu vợi niềm đau.

         Đôi gót trẻ chưa dầm hết chín phương trời đất, chưa thành vai sắt chân đồng trên đôi dép tuột quai. Thằng con Mẹ háu ăn chóng đói, trân trân ngó mãi sao trời...


                                       Khúc 4

       Nghèn nghẽn tiếng "ầu ơ...", cánh võng không bàn tay hụt hẫng. Cuối vườn thu vơi bay từng sợi nắng, rứt gì lòng Mẹ? Thu ơi! Khói hương thơm đến lạnh người. Ngọn khói: tóc mây - chân hương: nguồn cội. Kẽo kẹt từ vồng tre ấm bụi "tre già măng mọc" mà thương.

        Nơi Mẹ tiễn con đi - Nơi Mẹ ngóng con về - nơi đồng vọng. Sừng sững tượng đài Chiến thắng - Đìu hiu dáng Mẹ lưng còng.

        Sao con là ráng mây hun hút cuối tầm, là ngọn buốt thổi phơ thêm mái tóc?

       Con là khói mây bay giữa trời Tổ quốc, mãi không cùng trong lòng mẹ bao la.

 

Thành Sen, cuối năm 1997

                                                                                              

(*): Bài đoạt giải thưởng cuộc thi Tổng Cục Chính trị QĐNDVN và tạp chí Văn nghệ quân đội "Hướng tới giao thừa thiên niên kỷ 1998-1999)

 

 

 Dáng mẹ

 

 

Con chẳng hình dung ra Mẹ khi dẫn đàn con đạp núi xuống đồng bằng. Con chẳng hình dung những ngón chân trần lần đầu tiên víu lên mép biển. Mái nhà đông Trường Sơn thì dốc thế kia, lổn nhổn đá tai mèo trắng lòa mặt sóng.

Bàn tay không của người mẹ trẻ, những bàn tay không của đám trai tráng khao khát trưởng thành, từ cheo leo làng bản xuống chài lưới định canh, con ốc con cua bữa đầu thay tôm cá.

Ai trong số những người con của Mẹ trở thành thần Khoai, thần Lúa? Ai đóng cối xay, ai ghép ván lướt thuyền? Mảnh buồm đầu tiên căng gió ra khơi làm bằng vỏ cây hay bằng phên tre nứa?

 

Cô gái nào là dâu đầu chị cả biết kết nón quai thao, biết đan áo tơi chằm? Điệu hát đầu tiên ru trẻ dưới đồng bằng có na ná câu then, câu lượn?

Ai cho con tằm ăn lá dâu thay lá sắn để kén thành tơ, tơ thành lụa, mớ ba mớ bảy dập dìu? Vôi bạc, trầu cay, đắng chát hạt cau, ai ghép chúng nên đôi nên lứa?

Cha độc mộc ngược sông Hồng, sông Mã. Mẹ nhớ thương, đâu bến đợi, bến chờ? Bình minh lên sau những gọng vó bè. Hoàng hôn rớt cuối lửa nương khói rẫy.

Cha và Mẹ giã từ hạnh phúc lứa đôi đi tìm miền Đất Hứa, dời núi chuyển non tạo lập đồng bằng. Rất nhiều năm sau, người châu Âu rẽ sóng dõi trăng, tìm ra châu Mỹ, châu Đại Dương - cũng vẫn từ đam mê chinh phục.

Mẹ là người đàn bà đầu tiên trong cổ tích dựng nước non bằng một bọc trứng Rồng.

Đất nước vững bền tự bốn ngàn năm. Chưa ai tạc nổi dáng hình của Mẹ.

 

Lay thức

 

Tình cờ tôi tìm được cuốn lý lịch ông tôi chuột đã gặm bốn bề, nanh vuốt thời gian bập vào quá khứ. Từng con chữ long lanh như mảnh thủy tinh vỡ soi vào tôi bằng giọt mắt ngấn sương.

Chẳng hiểu vì bận bịu hay vô ý thức mà tôi đánh mất dần những gì còn lại của tổ tiên, đánh mất một thời vinh quang và cay đắng. Để lúc chiêm ngưỡng các tượng đài, lướt qua nhà truyền thống, tôi trầm trồ thán phục như trước các chiến tích siêu nhân...

Trước mặt tôi là ngày mai. Sau lưng tôi là quá khứ. Tôi đón nhận Ngày Mai dửng dưng. Tôi vĩnh biệt Hôm Qua thờ ơ như người buồn ngủ. Tôi vô tư nuốt những tháng ngày ngắn ngủi tạo hóa ban cho. Ngửa mặt lên trời tu chén rượu, liếc mắt xuống đất kiếm nụ hoa. Bầu trời đầy mây bông mà tôi không nghĩ được tôi chẳng thể so với những chùm mây lơ đãng ấy. Mây hợp, mây tan, mây rữa thành mưa bụi nhưng mây vẫn là mây trong vũ trụ xoay vần. Bông hoa nào cũng xinh tươi và mới mẻ. Bên cạnh bông đang chuyển nụ còn chỗ của bông hôm qua đã tan vào gió chẳng để lại hình hài. Tôi không được như mây: tái tạo. Tôi không được như hoa: rực rỡ một thời.

Tôi là tôi thôi: lu mờ, hờ hững, nhỏ nhoi, nếu sôi động chút nào - có chăng - cũng vì miếng ăn tấm mặc, cũng vì gió lay mưa thức trong xôn xao chợ búa kiếp người. Tôi là tôi thôi: kẻ mắc nợ trần gian như chúa Chổm - nợ bầu trời một ngụm ô xy, nợ cánh đồng một bông lúa chín, nợ mẹ đôi bầu sữa lép với câu đò đưa bên cánh võng ngọt ngào. Tôi nợ giọt mồ hôi trượt qua nếp hằn trên trán bố, nợ cây đa đầu làng chìa râu cho tôi đu võng tuổi thơ.

Tôi nợ con sông quê khi vùi tấm thân lấm láp giữa dòng trong vắt, sông gột rửa tôi bằng giọt lòng, gạn những gì tôi bỏ lại, lắng đọng đôi bờ thành dịu ngọt phù sa.

Tôi là tôi thôi: một sớm giật mình nhìn những mẫu chữ thủy tinh chuột gặm, cuống cuồng chạy đi nhặt nhạnh chắp nối quá khứ tiền nhân. Cha ông tôi chứ đâu phải thiên thần. Những mẫu chữ kết vào nhau thành sợi xích nối tôi với các thế hệ xa xưa, sợi xích kéo tôi ngược dòng thời gian nhưng không lạc vào vườn cổ tích. Nơi tôi đến là nơi rất thực và tôi đã tìm ra báu vật của mình.

 

Lịch sử ông cha - Lịch sử xuyên qua nắng - mưa - máu - lửa. Những trang huyền thoại kia truyền từ đời này sang đời nọ là để thi vị hóa cuộc trường tồn gian khổ trên dải đất chênh vênh. Lịch sử ông cha tôi có hình dạng tảng băng: một phần nổi, ba phần chìm, kẻ vô tâm chẳng thể nào hiểu được.  Ai dám bảo chín chín đỉnh non Hồng không phải là ẩn số.  Ai chưa dám tin Kinh Dương Vương từng tọa lạc nơi này. Đàn chim phượng vô tình vỗ cánh hay tôi vô tình để một mắt xích còn thất lạc đâu đây?

Đừng dùng mũi xà beng cậy vào núi đá mong khơi lên cổ vật ngàn đời, sau đám mây ảo mờ Hương Tích, nàng Diệu Thiện ôm nguyệt cầm cất tiếng hát chơi vơi. Nàng hát về dải đất hẹp phơi mình trong gió cát, những người nông dân một nắng hai sương tần tảo nuôi đời. Rằng giọt mồ hôi trên hạt thóc củ khoai cũng mặn không kém gì muối chưng lên từ biển. Rằng: Chẳng phải ngẫu nhiên mà hạt lúa cũng tự mình hai đầu biết nhọn. Rằng: Dòng Lam trong xanh bởi đầu nguồn Ngàn Sâu, Ngàn Phố xanh trong. Ôi! Cám ơn nàng đã nhắc ta lẽ sống: Cội nguồn.

Nàng kể: Từ nền Trang Vương nhìn ra bốn phía, phía nào cũng đầy ắp giai điệu thơ - phú - dân ca. Lời kẻ sĩ mịn như Hoa Tiên, đẹp như Kiều, nghênh ngang như Uy Viễn. Lời phường cấy, phường cày mộc mạc vè dặm; tha thiết giọng đò đưa, phường vải, ca trù.

Nàng kể rằng: Những chiếc áo tơi xù lông trong nắng hạ, những cặp môi thắm trầu chín đỏ buổi chiều đông cứ xôn xao bốn phía ruộng đồng lời vấn vít yêu đương cùng bao chuyện nhân tình thế sự...

Cái giàu đang ở tương lai - cái nghèo chưa thành quá khứ. Những câu ca muôn thuở giăng mắc cõi lòng...

                                                                                              B.Q.T