Bầy chim di trú
●Sáng tác trẻ:
Truyện ngắn Vũ Thị Huyền Trang
Sư thầy kể rằng cùng nhặt được nó và hắn vào một buổi sáng sớm trời mưa tầm tã, khi gà dân vừa gáy sáng, chó cắn ầm ĩ cả đoạn đường dài. Sư thầy nghe tiếng trẻ con khóc liền trở mình thức giấc. Linh cảm thấy chuyện chẳng lành liền trở dậy đi ra cổng chùa thì nhìn thấy một chiếc làn nhựa và một bọc vải đã ướt sũng vì mưa. Nó và hắn bị người thân mang bỏ trước cổng chùa, cả cơ thể tím tái vì mưa lạnh, bên trong chiếc làn nhựa của nó có một ít quần áo và một tờ giấy ghi "Đặng Thị Phương Linh”. Từ đó ai cũng gọi nó là Linh và đặt cho hắn một cái tên là Hùng mà không có họ.
Cứ thế hắn và nó lớn lên trong chùa Bồ Đề, cùng được sư thầy dạy chữ, học cách làm người và cũng đã từng nhiều lần ngồi lau nước mắt cho nhau mỗi khi buồn tủi. Mà thân phận những đứa trẻ bị bỏ rơi bao giờ cũng mang trong mình nhiều u uất, nhất là những buổi chiều tàn, ngồi nghe lá trong sân chùa rơi, nghe chim trong vườn chùa hót gọi đàn. Đã có lúc hắn nói với nó:
-Lớn lên Hùng sẽ đi tìm cha mẹ.
Nó không nói gì, chỉ im lặng nhìn theo bầy chim di trú vừa bay ngang qua bầu trời mùa xuân. Tự nhiên nó nghĩ rằng lớn lên mình sẽ làm những cánh chim di trú, bay về khắp muôn nơi. Bởi vì những đứa trẻ mồ côi thì không có gia đình mà khi không có gia đình thì lấy đâu ra chốn dừng chân. Chỉ nghĩ đến đấy thôi mà nước mắt nó đã lặng lẽ lăn trên gò má. Trên bầu trời, đàn chim vẫn bay thành hình chữ V nhịp nhàng và nỗ lực. Hắn bảo cứ vào mùa đông nhìn lên bầu trời cao, chúng ta có thể nhìn thấy những đàn chim bay về phương nam tránh rét. Nó hỏi:
-Tại sao chúng lại bay thành hình chữ V mà không phải bất cứ một hình thù nào khác?
Hắn nằm xuống thảm cỏ, ngước lên bầu trời thẳm xanh, nhìn theo đàn chim bay giờ chỉ còn là chấm nhỏ trên nên trời và bảo:
-Đơn giản vì khi bay thành hình chữ V thì chúng dễ hỗ trợ nhau, bởi lực vỗ cánh của mỗi con chim sẽ tạo ra một lực đẩy cho con chim bay trước nó. Mỗi khi con chim đầu đàn cảm thấy đuối sức nó sẽ bay lùi về phía hai bên. Và một con chim khác sẽ tự động bay lên thay thế vị trí dẫn đầu. Trong suốt chuyến bay đàn chim kêu to để động viên con chim đầu đàn luôn giữ tốc độ bay của nó. Và khi một con chim vì quá mệt hay bị thương mà rơi xuống thì vài con chim khác sẽ cùng rơi khỏi đàn và bay xuống đất để bảo vệ bạn mình. Khi nào con chim kia khỏe lại thì chúng sẽ cùng tiếp tục lên đường. Chúng không khi nào bỏ rơi nhau.
-Loài chim mà sống thật tình nghĩa. Thế có khi nào chim bố mẹ cặp con đi bỏ không hả Hùng?
-Như con người đấy à? Chắc là không đâu. Lũ chim con chỉ bị mồ côi khi chim bố mẹ đi kiếm ăn gặp thợ săn, hay qua một đêm bão giông cây cối đổ khắp trời.
-Bố mẹ chúng mình... liệu có còn sống không?
-Lớn lên Hùng sẽ đi tìm bố mẹ. Tìm cả cho Linh nữa.
Rồi hai đứa thở dài, nghe từng từng tiếng lá rơi trong sân chùa mà lòng buồn rượi. Dù không nói ra nhưng đứa nào cũng biết đứa kia đang nhớ nhung một hình ảnh xa vời, một kí ức không có thật và những hy vọng quá đỗi mong manh...
Hàng ngày nhà chùa vẫn có khách đến viếng thăm, họ là những nhà hảo tâm đến cho mì tôm, tiền bạc hay quần áo ấm. Đôi khi những vị khách chỉ tạt qua, thưởng ngoạn cảnh chùa để lòng tĩnh tâm, thanh thản rồi lại lặng lẽ ra đi. Bao giờ khi thấy khách ghé thăm, sư thầy và những đứa trẻ nơi đây đều nhen lên một niềm hy vọng rằng biết đâu trong số họ sẽ có người đến đây để tìm lại giọt máu của mình sau những phút giây tuổi trẻ đầy nông nổi. Nhưng rồi vẫn chẳng có đứa trẻ nào được bố mẹ đón đi, khách đến đây thăm nhìn chúng thở dài, thương xót rồi lại khuất bóng trên những con đường. Đôi lúc nó hỏi hắn:
-Chúng ta có phải là là trẻ mồ côi không cậu?
Hắn không trả lời, hai đứa lại nằm ngửa cổ, gối đầu lên tay giữa thảm cỏ vườn chùa. Thi thoảng Hùng cũng hát, những bài hát rất buồn mà chẳng biết hắn học lỏm được ở đâu. Cho đến một hôm hắn bảo cần phải học một nghề gì đó dắt lưng thì lớn lên mới mong chu du thiên hạ tìm người thân được. Nó hỏi:
-Biết học nghề gì bây giờ?
Hắn đủng đỉnh bảo:
-Con trai thì học mộc, con gái học may. Có hai nghề này trong tay chắc không lo đói.
Thế là hai đứa xin sư thầy cho đi học, vừa học việc vừa làm nên không mất tiền, lại được nhà chủ thương tình nuôi cơm ăn hai bữa. Nó học may ở xa, thường ở lại cả tuần, cứ đến chủ nhật hắn lại mượn đâu được cái xe đạp lên đón nó về chùa rồi đến tối lại chở đi. Vào thời gian này, hai đứa không còn thời gian nhìn lên bầu trời chờ đàn chim di trú đi qua nữa. Cũng chẳng còn rỗi rãi gì để tính những chuyện xa xôi nhưng cả hai đều biết mình cần cố gắng.
* * *
Đến năm cả nó và hắn đều tròn mười tám tuổi thì cũng là lúc học được nghề dắt lưng làm vốn. Một hôm hắn dẫn nó về lạy tạ sư thầy xin được ra ngoài đời lập nghiệp. Của hồi môn của sư thầy cho hai đứa ngoài ít tiền vốn dắt lưng, người còn trao lại cho nó là cái làn nhựa và tờ giấy có vẻn vẹn bốn chữ "Đặng Thị Phương Linh”. Còn hắn là bộ quần áo, tã lót vẫn còn nguyên màu ố vàng mà khi hắn áp vào ngực vẫn còn thấy cái cảm giác lạnh thấu xương trong lời kể của sư thầy về một đêm mưa tầm tã.
-Linh muốn đi đến nơi đâu?
-Tùy Hùng.
Hắn thở dài, lần đầu tiên khi nói về hành trình tự do hắn lại lưỡng lự nhiều như thế. Cũng giống như những con chim non, khi được chăm sóc trong một chiếc lồng thì cứ khát khao bầu trời tự do bay nhảy ngoài kia. Đến khi được tung lên bầu trời thì những cái vỗ cánh ban đầu bao giờ cũng vừa sung sướng vừa hụt hẫng. Chúng luống cuống không biết rồi sẽ phải bay về đâu trong bầu trời bao la, thăm thẳm. Như đọc được những suy nghĩ ấy của hắn, Linh vỗ về bằng niềm hy vọng mờ hồ, rất đỗi mong manh:
-Đi đến một nơi nào đó có một người đủ tình yêu để giữ Linh ở lại, kể cả Hùng cũng nên vậy. Lúc ấy mình sẽ dừng chân, như những bầy chim di trú tìm thấy mảnh đất trú đông.
Điểm dừng chân đầu tiên của cuộc hành trình là một vùng nông thôn ở miền núi phía Bắc. Tại đây, hắn xin vào làm cho một xưởng mộc chuyên đóng giường tủ, còn nó thì vào làm cho xưởng may tư nhân với mức lương đủ để tạm hài lòng. Vào những ngày ít việc, hắn hay chở nó đi lang thang, dù đi đến đâu thì một bên ghi đông xe cũng treo cái làn nhựa còn một bên treo lủng lẳng bộ quần áo quấn tã lót trẻ con. Hai đứa đứng lơ ngơ ở cổng chợ phiên, người qua lại mang trăm vẻ ưu tư trên mặt, léo xéo chuyện, hể hả cười, chẳng ai để ý đến nó và hắn. Đôi khi mấy cái xe thồ rau đi qua còn quát ầm ĩ hai đứa lơ ngơ đứng chật đường. Chợ tan hai đứa lại đi, hết ra bến đò ngóng bên lở bên bồi lại ra ga ngồi hàng giờ chờ tàu về. Rất nhiều buổi chiều muộn, nó mệt mỏi ngủ gật trên vai hắn, những vòng xe quay đều, cái làn nhựa và mớ tã lót vẫn lủng lẳng trên ghi đông. Đàn dơi nhập nhoạng đi kiếm ăn, tiếng ếch nhái kêu gọi bạn ầm đồng, thi thoảng gặp cái ổ gà hắn vừa phải còng lưng đạp vừa một tay quờ ra sau giữ cho Linh khỏi ngã.
* * *
Họ đã đi qua tất thảy mười sáu vùng đất, mười sáu xưởng mộc, xưởng may, mười sáu cái chợ phiên, mười sáu bến đò và nhiều hơn thế những sân ga vắng khách. Vẫn chiếc xe đạp lủng liểng làn nhựa và tã lót trẻ con, vẫn là hắn và nó đèo nhau những buổi chiều buồn tênh và vô vọng, mải miết như loài chim di trú. Đã tám năm trôi qua, gã thành thằng đàn ông vạm vỡ, mắt sâu đêm, nỗi buồn ngút ngất. Còn nó đã mỏi mệt nhiều trên cái nếp nhăn mờ mờ giữa trán. Đã có lúc hắn bảo:
-Chưa gì mà trông đã như bà già rồi. Con gái gì mà chẳng chịu chú ý đến nhan sắc gì cả. Chưa biết sợ cái nỗi lo ế chồng như rất nhiều cô gái khác à?
Nó bật cười:
-Chim di trú thì làm gì có gia đình. Không cần gia đình thì sẽ không sợ ế.
Rồi chợt nhiên buồn hoang hoải, lòng tự hỏi không biết bao nhiêu năm qua nó đang sống bằng gì? Đang đi tìm cái gì? Không phải đó là cái niềm tin tìm lại được gia đình đó sao. Nó và gã. Những kẻ tội nghiệp và đáng trách. Tối về, nó một mình mang mảnh gương bé xíu ra soi, bỗng giật mình khi nhận ra thời gian đã lướt qua khuôn mặt quá nhanh, chỉ để lại những dấu chân tàn nhẫn. Trong đêm khuya, tiếng trẻ con khóc thét lên, tiếng bà mẹ nào giật mình tỉnh giấc nựng nịu con nghe vừa cay đắng vừa ngọt ngào đến lạ. Nó tưởng như muốm chạm vào tiếng khóc trẻ thơ, cũng muốn được ôm đứa trẻ vào lòng, muốn được hát ru. Muốn...
Rồi cũng đến ngày cuối cùng của tháng thứ sáu. Đến hẹn lại đi. Nó và gã lại dời bỏ mảnh đất này để đi đến một mảnh đất khác, không phải để tránh đông như bầy chim mà đi để nuôi niềm hy vọng.
-Tại sao đi mãi vẫn không có nơi nào đủ để giữ Linh ở lại?
-Hùng thấy mỏi chân rồi à, có muốn nghỉ ngơi một chút không?
-Không! Chừng nào còn chưa tìm thấy một nơi thật bình yên cho Linh thì Hùng còn chưa muốn dừng chân.
-Vậy còn chiếc làn nhựa và bọc tã lót trẻ con?
Hắn lại trả lời bằng sự im lặng vốn có của mình. Ngồi sau hắn, nó ngửi thấy mùi mồ hôi nồng nồng phả ra từ cái áo lót trắng đã bắt đầu thủng lỗ chỗ vì vác gỗ trong xưởng mộc. Nó đã dựa vào tấm lưng ấy suốt tám năm rong ruổi hết mảnh đất này đến vùng miền khác. Đã ngủ gục trên vai hắn nhưng buổi chiều tàn bên những sân ga không còn nhớ nổi tên. Đã ngồi sau xe hắn những lúc buồn phiền để hắn chở đi khắp nơi, để chỉ im lặng bên nhau như hai chiếc bóng. Nếu một ngày nào đó một chiếc bóng không còn tồn tại nữa thì liệu nó có còn đủ sức để rong ruổi nỗi buồn đây đó nữa hay không?
Thi thoảng nó vẫn bắt gặp những đàn chim di trú bay thành hình chữ V trên bầu trời đầy nhịp nhàng và nỗ lực. Đã có lần hắn bảo đàn chim bay như thế để hỗ trợ cho nhau, bởi lực vỗ cánh của mỗi con chim sẽ tạo ra một lực đẩy cho con chim bay phía trước. Nó và hắn cũng vậy, suốt bao nhiêu năm vẫn mải miết đi bên nhau như thế để tìm một hạt mầm hy vọng. Đến bây giờ thì nó nhận ra rằng cái mảnh đất bình yên bấy lâu nó kiếm tìm chính là bờ vai của hắn. Bờ vai vẫn đượm mùi mồ hôi nồng nồng nhưng lại luôn là chỗ dựa vững chãi nhất cho nó. Vậy tại sao lại cứ rong ruổi như loài chim di trú, tại sao lại cứ phải kiếm tìm hy vọng dù biết là ảo ảnh. Bất chợt nó quay lại nói với hắn:
-Linh đã tìm thấy người đủ tình yêu giữ chân Linh rồi?
-Ai vậy?
Không trả lời, nó nhẹ nhàng dựa vào bờ vai hắn và thầm nhủ rằng mảnh đất trước mắt sẽ là mảnh đất cuối cùng trong hành trình di trú.
V.T.H.T