Câu đối xưa nói về ca nhạc và sân khấu - Phan Lý Lệ Vân (sư tầm)
* Câu đối của vua Minh Mạng (1820 - 1840) đề trước Duyệt thị đường:
- ÂM NHẠC TỊNH TRẦN, HÒA KỲ TÂM NHI DƯỠNG KỲ CHÍ
- NGHIÊM XUY TỀ HIẾN, THỦ KỲ THỊ NHI GIỚI KỲ PHI
Dịch nghĩa:
Âm nhạc cùng tấu lên, là nhằm điều hòa tâm hồn, bồi dưỡng ý chí
Cái tốt, cái xấu cũng được diễn ra là để giữ gìn điều phải, ngăn điều trái.
* Câu đối ở Từ đường Thanh bình (nhà thờ ngành hát bội ở Huế)
- HÀNH KỲ LỄ, TỐ KỲ NHẠC, CA TỰ THIÊN TU
- ĐÔN HỮU ĐIỂN, TỰ HỮU LUÂN, CƯƠNG THƯỜNG CHIÊU CHƯỚC
Dịch nghĩa:
Làm theo lễ, tấu theo nhạc, ca hát tự đây
Hòa có phép, hợp có khuôn, cương thường sáng chói.
- CỔ VŨ TUYÊN DƯƠNG, CÁ CÁ CỘNG ĐẮC TÂM ỨNG THỦ
- XINH CA XUẤT NHẬP, NHÂN NHÂN GIAO THÁO CỦ TUẦN QUY
Dịch nghĩa:
Trống múa vang lừng, mỗi người bụng nghĩ làm sao, tay đưa làm vậy
Ra vào nhịp hát, ai ai cũng theo đúng lề lối quy cũ.
- VẠN CỔ TỰ NGUYÊN ÂM DĨ VIỄN
- DO TẠI QUẦN TÀI TRƯỚC HẢO MINH
Dịch nghĩa:
Âm thanh cổ sơ ngày một khác xa, do nhiều tài năng trau chuốt để đi đến chỗ trong sáng.
* Câu đối của ông nghè Trương Hoài Thao tặng NSND Nguyễn Phẩm:
- CA XƯỚNG HỆ ĐA MÔN, TRỰC BẢ TRUNG LƯƠNG VI MỤC ĐÍCH
- VINH KHÔ THÀNH ẢO MỘNG, CHỈ TƯƠNG NGHỆ THUẬT TÁC SƯ TƯ
Dịch nghĩa:
Nghệ thuật hát diễn nhiều môn, mục đích tạo dựng con người trung lương.
Sướng khổ thành ảo mộng, đem nghệ thuật làm thầy cho cuộc sống.
* Câu đối của Đông y sĩ Đỗ Xuân Nghinh tặng Đoàn hát bộ bà Chánh Đệ:
- ĐỒNG TỨ NGŨ LỤC DANH, VIẾT THIẾT KỴ, VIẾT TAM QUÂN, KỲ CỔ HUYÊN TRUYỀN CHƠN KHÍ TƯỢNG.
- TRƯỚNG MÔN TAM TỨ BỘ, NHI TRƯỜNG THÀNH, NHI VẠN LÝ, Y QUAN LẪM LIỆT CHẤN OAI NGHI.
Dịch nghĩa:
Chỉ vỏn vẹn có 5, 6 chú hiệu, mà gọi là thiết kỵ, là ba quân, cờ trống vang rền, thật khí phách.
Với 3, 4 bức phông cảnh, mà xem như thành dài vạn dặm, cân đai áo mão, rõ oai nghi.
* Văn tế tổ ngành hát bộ tỉnh Quảng Nam
- TỐ CHÂN DIỆN MỤC, TRỌNG GIẢ TINH KHÍ THẦN
- HẠ TỬ CÔNG PHU, CẦU HỒ THANH SẮC THỤC
Dịch nghĩa:
Biểu diễn chân thật, phải trọng tinh, khí, thần
Luyện tập công phu, để đạt được thanh, sắc thục.
- SẮC DUY SONG NHÃN HỰU SONG THẦN
BIỀN TIÊN YỂU ĐIỆU THỊ THANH TÂN
- KHỨ GIẢ HAO KHAI SONG CƯỚC HẠ
LAI GIẢ HỒI HOÀN TỐNG THỊ XUÂN
Dịch nghĩa:
Có sắc là đôi mắt phải có thần, nhanh nhẹn, uyển chuyển là vẻ đẹp thanh tân,
Bước đi phải như có hoa nở dưới chân, vòng lại vòng về đều mang vẻ xuân tươi tắn.
- PHÚ QUÝ, VINH HOA, ĐƯƠNG CỤC NHI HÀ PHÂN CHÂN GIẢ
- TRÍ NGU HIỀN PHÚ, ĐÁO ĐƯỜNG NHI LẬP KHÁN NGHIÊM CƯƠNG
Dịch nghĩa:
Phú quý, vinh hoa, phải thể hiện cho đúng cái thật, cái giả
Người hiền, người ngu, đến rạp xem mà có thái độ nghiêm chỉnh
- QUAN VŨ THÍNH CA, NHỠN TIỀN TINH THẦN DỤC DƯỢC
- ĐẮC NGÔN VỌNG TƯỞNG, CẢM TÌNH CÂN NHƯ VŨ YỂM
Dịch nghĩa:
Xem múa, nghe hát bày ra trước mặt mà tinh thần sôi sục
Nghe được mà quên cả mình, tình cảm dạt dào như mưa lớn
- THỐN THỔ THỊ TRIỀU ĐÌNH CHÂU QUẬN
- NHẤT THÂN KIÊM PHỤ TỬ QUÂN THẦN
Dịch nghĩa:
Mỗi tấc đất là triều đình, châu quận
Một con người là cả cha con, vua tôi
- DĨ NHẤT NHÂN THÂN KIÊM THẾ SỰ
- TRẠO TAM THỐN TRIỆT TÚC BÌNH SINH
Dịch nghĩa:
Lấy thân mình gồm cả cuộc đời
Uốn ba tấc lưỡi đủ cả cuộc sống
- THUNG DUNG ẨM TỬU, THIÊN BÔI TỬU BẤT TÚY NHÂN
- DŨNG LƯỢC DỤNG BINH, BÁCH CHIẾN BINH VÔ HUYẾT NHẪN
Dịch nghĩa:
Uống rượu thích thú, nghìn cốc rượu không làm say con người
Đánh giặc rất quyết liệt, trăm trận đánh không đổ tí máu
* Câu đối treo trước rạp của Đoàn hát bộ Tân thành ban của NSND Nguyễn Lai, năm 1940:
- TÂN THỜI KHỞI CẢM XU TRÌ HẬU
- THÀNH SỰ DUY BẰNG TÁNG TRỢ ĐA
Dịch nghĩa:
Tân thời há dám chùn chân lại
Thành sự còn mong giúp sức nhiều
P.L.L.V