Vĩ thanh cuối Việt
Tụi mầy giờ ngon, quờ tay trúng gái, không nhớ hết họ tên. Tụi tao bảy tám mươi năm về trước, đến tuổi tơ tưởng, nhìn quanh chỉ mắm với đước. Nhỏ nào nhan sắc, địa chủ Cà Mau xuống rước, nhỏ nào thường thường bậc trung cũng đã có thương lái thương hồ, đâu tới đám làm mướn công nhật tụi tao? Mười thằng hết bảy tám mất trinh với bùn… Hà hà, mầy không hiểu? Xấp trẻ Đất Mũi thời nay còn không hiểu huống nữa dân “nước Huế” như mầy. Nói đơn giản dầy nè: Tới lúc chuyện đó trở nên bí bách, tụi tao ù ra bãi bồi, hốt bùn đắp hình nữ nhân, vừa làm vừa nhắm mắt tưởng đến nhỏ mình thương hay đàn bà mình mê. Lát nữa, cho mầy gặp thằng bạn nối khố quái kiệt của tao. Hồi cưới được vợ rồi, thỉnh thoảng nó vẫn “ngoại tình” với bùn. Kiểu chi vợ không chiều, thì nàng bùn nhận hết. Dậy đó, má tao đẻ tao trên bãi bùn, bùn nuôi tao lớn, bùn dạy tao làm đàn ông đàng ang, chẳng lâu nữa bùn sẽ mở lòng đón tao về… Một vòng đời, bắt đầu với bùn và kết thúc cũng với bùn. Nên chả mấy khi tao nói phù sa, nghe kiểu cách xa lạ, cứ kêu một tiếng bùn thôi, thấm thía tim óc…”.
Một hồi liên tục nghe lại lời thoại trên, vậy mà lần nào tôi cũng tủm tỉm cười, thương cảm lẫn ngưỡng mộ. Chính nó từng thôi thúc tôi phá vỡ khuôn mẫu phần dẫn một phóng sự. Câu chữ trong tôi trào theo dòng cảm xúc, cứ như tùy bút hay như thơ văn xuôi: “Bùn ơi chào em. Phải nửa đời hẹn hò mới gặp. Phải đến đây để nhận thêm hàm nghĩa không cùng của bùn, nạp thêm năng lượng vô biên của mặt đất mặt nước. Cũng nâu nhạt tầng trên trơn trợt, cũng ngả xanh sét nhão tầng sâu, nhưng bùn Đất Mũi là quà tặng của thiên nhiên, là sự sống trông thấy được, là tiền thân của đất, của rừng, là cuộc vận động không ngừng của địa dư, của tương lai bất tận. Tôi đứng yên mở hết giác quan ghi nhận chuyến hành hương kỳ diệu vào lòng đất mới. Chầm chậm và êm ái đôi chân trần lún vào bùn, mềm mát vuốt ve rồi siết chặt ấm nóng, cuối cùng khẽ chạm đất nền. Tôi rùng mình hóa thân cây mắm cắm rễ níu giữ phù sa, mắt như lá xôn xao vời trông biển cả hoang sơ mãi rì rầm khát vọng ngoài kia”.
Hơn 20 năm trước, băng cassette này đã bị xếp xó trong tủ đồ nghề làm báo và hẳn nó vĩnh viễn không cất tiếng lần nào nữa như một vĩ thanh vọng từ cuối Việt bởi máy nghe cũng hỏng từ lâu, trước cả thời điểm các hãng sản xuất máy ghi âm thay băng nhựa bằng chip điện tử. Nghĩa là, những lời rút ruột vừa thật đến đau đớn vừa minh triết dân gian được thể hiện qua chất giọng hài hước kiểu Ba Phi đặc thù của ông già Khmer Đất Mũi kia sẽ câm nín trong một hộp nhựa cũ kỹ tầm thường, rồi theo cách nào đó trôi biến khỏi cuộc sống này, như mọi thứ rác thải trên đời. Tôi tìm ra nó khá nhanh trong thùng gỗ đựng ngót trăm băng ghi âm linh tinh suốt 25 năm lên rừng xuống biển viết báo. Ấy là nhờ ba chữ ghi chú trên hộp băng: “Đất Mũi, 1992”. Bù lại, sau đó phải mất ba ngày hỏi tìm mới mượn được cái máy nghe tương thích từ một nhà sưu tập đồ cổ.
Vậy cái gì đã đột ngột đánh thức ký ức ngủ đông của tôi, khiến tôi bật dậy, rời máy tính với bản thảo tiểu thuyết dở dang để lục tìm một vật tưởng không còn giá trị sử dụng? Là cuộc gọi từ mã vùng quốc tế +61, Australia, nơi cho tới lúc đó tôi không có bất kỳ mối quan hệ nào, quen biết hay công việc. Giọng nói mơ hồ bên kia bờ Thái Bình Dương mang tải âm sắc Nam Bộ: “Ông ơi, lóng rày khỏe hông?”. Tôi uể oải, cắt ngang: “Cảm ơn, cô nhầm số…”. “Dạ không nhầm, xin đừng cúp máy. Nghĩ ông còn nhớ giọng em, với lại tình cờ có được số của ông, mừng quá quên tự giới thiệu. Em Lành đây…”. “Lành nào bên Úc ta?”, tôi nghĩ thầm, khựng một lúc. Bên kia trở lại, giọng chùng xuống: “Quên em, nhưng chắc ông nhớ già Khmer đưa ông đi thăm Đám Lá Tối Trời để viết báo?”. Tôi kêu lên: “Ôi, Lành! Lành cháu ngoại già Prum!”. “Dạ đúng rồi. Lành là tên tiếng Việt ông đặt cho em, chỉ có ông gọi em dậy thôi, dậy mà hổng nhớ…”. “Xin lỗi, xin lỗi. Tôi nhớ, nhưng là nhớ Suchia Đất Mũi…”.
Phải, tôi nhớ. Nhớ cả cung trời cuối Việt, nơi tôi đã đến và khi sắp rời đi đã hẹn ngày trở lại với bao viễn cảnh. Nhớ luôn đoạn kết bài phóng sự nói trên: “Đêm cuối ở Năm Căn tôi trăn trở mãi. Không phải vì muỗi Năm Căn nổi tiếng xưa nay. Tôi muốn thức cùng đất. Đất Năm Căn chưa ngủ bao giờ, mỗi năm nở ra Biển Đông 100 đến 150 mét diệu kỳ. Tôi sẽ trở lại. Biết đâu lúc ấy bãi triều ngoài kia là xã mới và xã Đất Mới tôi đang qua đêm đã là đất cũ”.
Suchia cười rúc rích: “Dạ, dẫu hổng ai gọi, thỉnh thoảng em vẫn nhớ mình có tên Việt là Lành, Điềm Lành. Cái tên dễ thương…”. Ngừng một lúc, cô tiếp: “Em cũng rời Đất Mũi theo chồng mười năm rồi, anh ấy người Úc qua bên mình nghiên cứu rừng ngập mặn. Bữa nay giỗ ngoại, một mình giở cuốn sổ ghi nợ của ngoại để lại coi cho đỡ nhớ, bất ngờ thấy tên ông và cả số điện thoại…”. Tôi xúc động, ngắt lời: “Ngoại mất bao lâu rồi em?”. “Dạ, đã chín năm”. Khi nỗi buồn vơi nguôi, tôi sực nhớ: “Sao tên tôi nằm trong sổ nợ?”. Suchia lại cười: “Hổng phải lo. Ngoại cả đời chỉ có mỗi cuốn sổ đó, cốt để ghi trong ngày đã giao hàng cho ai mà thu nợ. Chuyện cần nhớ, ngoại cũng biên dô luôn. Lo tang sự xong, em mang nó sang đây, đặt trên bàn thờ…”. Tiếng nấc nghẹn của Suchia khiến tôi bối rối, rồi như nghe giọng nói và cách nói riêng của già Prum giờ đã khuất núi: “Dậy là tao đã kết thúc với bùn...”.
Tôi có mười năm công tác tại Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Đất Quảng - tạp chí của Hội, và đất Quảng theo nghĩa địa dư lịch sử - văn hóa, là đất nuôi dạy tôi thành nhà văn, nhà báo. Cái viết của tôi là cuộc kết giao giữa hai vùng miền văn hóa cá tính, Thuận - Quảng. Tập truyện lịch sử Người tử tù không chết; các kịch bản phim truyện Thanh gươm để lại, Hai năm nữa anh về, Những mảnh trăng hao khuyết, Mùa săn máu; và các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Trước rạng đông, Mạch nước trong… là không gian hội tụ các anh hùng chí sĩ đất Quảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Năm 1991, rời Tạp chí Đất Quảng, tôi vẫn tiếp tục mạch nguồn cảm hứng lịch sử hình thành từ đất Quảng. Với tờ Lao động Chủ nhật, được phân công viết phóng sự khắp ba miền, tôi có điều kiện di chuyển xa rộng hơn. Chuyến đi đầu tiên, tôi đăng ký một tháng lang thang đất cuối Việt, nơi tôi hằng mơ ước được đặt chân đến. Ngoài định mức hai phóng sự, tôi sẽ khảo sát thực địa, thu thập tư liệu dân gian tại chỗ về danh thần Thoại Ngọc Hầu. Chàng trai Nguyễn Văn Thoại sinh ra dưới chân núi Sơn Trà, Đà Nẵng (1761). Mười tuổi cùng gia đình di cư vào Nam lánh nạn phân tranh Trịnh - Nguyễn, Nguyễn - Tây Sơn. Lớn lên theo binh nghiệp, lập nhiều chiến công, được vua Gia Long giao chức trấn thủ Vĩnh Thanh (Vĩnh Long sau này). Hầu hết những công trình khẩn hoang, lập ấp phục vụ dân sinh của ông trở thành di sản lịch sử mở đất phương Nam. Nổi bật là hai con kênh đào, mà để ghi công, vua Gia Long đã đặt tên theo tên ông (Thoại Hà) và tên phu nhân của ông (Vĩnh Tế). Nhưng đời ông không thiếu bi kịch, khiến người đương thời cũng như đời sau thương tiếc. Ngay trước khi mất (1829), ông bị kẻ xấu vu tội nhũng nhiễu dân trong thời gian giữ chức Bảo hộ Chân Lạp. Vua Minh Mạng truy xét, giáng bậc hầu đại công dẫu đã khuất xuống hàng ngũ phẩm. Mấy năm sau, kết quả điều tra mới đã phát hiện sự thật, kẻ vu cáo bị trừng trị đích đáng, nhưng nhà vua im lặng về hình phạt đã dành cho Thoại Ngọc Hầu. Phải mất nhiều năm nữa, nỗi oan khuất của ông mới được vua Nguyễn đời sau chiêu tuyết. Dẫu vậy, bao đời nay người dân đồng bằng sông Cửu Long vẫn tôn Thoại Ngọc Hầu làm thần bảo hộ của họ. Đến nay, ngoài đền thờ chính tại Núi Sam, đang tồn tại hàng chục đền, miếu và đình làng lập bàn thờ Thoại Ngọc Hầu, nhiều nhất tại An Giang, Châu Đốc, Đồng Tháp… Được vua ban sắc phong tước hầu đã quý, được dân phong thần còn quý hơn.
Nhớ mãi chuyến hành phương Nam đầu tiên. Hôm ấy, 3 giờ chiều tàu khách Cà Mau mới cặp bến doi đất tận cùng đất nước. Thấy đói, tôi tấp vào nhà hàng gần nhất. Mọi người ngừng ăn uống, ngừng ầm ĩ nói cười, tò mò nhìn tôi. Cũng tự thấy mình không giống ai ở đó, tôi chọn một bàn trống. Nhìn thực đơn treo trên vách, tôi ái ngại nhận ra các món đều được chế biến từ thịt thú hoang dã. Cá sấu, trăn, rắn, rùa, dơi, và cả chuột đồng. Chưa biết làm thế nào để có bữa ăn vừa miệng thì nghe tiếng xì xào sau gáy. Ngoảnh lại, một đầu rắn nhún nhảy với cái lưỡi dài thè ra thụt vào như tia chớp. Tôi bật dậy, làm tung tóe các thứ trên bàn. Cả quán phá lên cười. Thì ra con rắn đã bị nhốt trong lồng sắt mắt cáo chờ mổ thịt và cái lồng ở cách tôi gần cả sải tay. Tôi cũng bật cười theo, ngượng nói lời xin lỗi bà chủ quán. Xua tay tỏ ý tôi đừng bận tâm, bà quay sang cô gái chừng 16, 17 tuổi đang đứng che miệng cười sau quầy, bảo ra giúp người ta.
Vừa thu dọn đũa muỗng rơi vãi xuống sàn, cô vừa nhịn cười đến đỏ mặt. Nhìn lên, thấy tôi còn vẻ thảng thốt, cô cười xòa, cười đến chảy nước mắt. Tôi không thấy khó chịu kiểu ứng xử hồn nhiên ấy, lại nhờ cô sắp xếp vài món gần với bữa cơm hơn là bữa nhậu dữ dằn. Khi đặt món cuối xuống bàn, cô lên tiếng: “Ông nói giọng “nước Huế”?”. Tôi đáp phải. “Em nói chuyện với ông chút, được hông?”. Tôi gật đầu, kéo ghế mời. “Hổng cần đâu, thích nghe ông nói thôi”. “Vì sao?”. “Dạ, mắc cười lắm”. Đáp vậy rồi cô lại cười. Tôi cười theo, hỏi tên. “Dạ Suchia”. Tôi ngơ ngác, cô giải thích: “Tên Khmer đó”. Tôi thấy vui, nghĩ vừa nhặt được chi tiết lạ cho bài phóng sự, nói vậy em là người Khmer đầu tiên tôi tiếp xúc. “Thiệt hông?”. “Thiệt, mà Suchia nghĩa gì vậy?”. “Dạ điềm lành”. “Còn tên Việt?”. “Hổng có”. “Vậy tôi gọi em Điềm Lành, được không?”. Suchia gật đầu dè dặt. Cậu chàng ở bàn bên chõ vào: “Ông nhầm rồi nghen, nhỏ nầy bà chằng non chứ hiền với lành chi?”. Suchia bụm miệng cười. Cả quán lại cười vỡ. Chính tôi, khi trò chuyện, đã giản lược tên kép Điềm Lành còn mỗi Lành, hòa nhập cùng đám đông thôn dã Gái, Nụ, Út… Rồi, tôi giật mình ân hận vì đã có một ứng xử không đẹp, Việt hóa một cái tên Khmer. Nhưng thấy Suchia vui, tôi mặc nhiên dùng cả hai tên.
Lát sau Suchia mang ra xị rượu thuốc, đặt lên bàn: “Nghe ông là khách ngoài Trung vô lần đầu, quán mời”. Thoáng ngạc nhiên và cảm động, tôi chắp hai tay làm một cử chỉ cảm ơn bà chủ phía sau quầy. Biết cô gái chờ nghe giọng Huế, tôi mở chuyện: “Em làm ở quán này bao lâu?”. “Bộ đây giống người giúp việc?”. Suchia trả lời bằng câu hỏi ngược tinh nghịch. Tôi sửa sai: “Là con gái bà chủ?”. Cô lắc đầu: “Bả người Việt mà, khách hàng thôi, em bán cho bả các thứ đặc sản”. Rồi chỉ vào con rắn vừa khiến tôi chết khiếp: “Của em đó. Ngoại em săn bắt, em giao hàng, hiểu hông?”. Tôi gật đầu mỉm cười. Cô bé chúc tôi ngon miệng và rút vào phía sau quầy, rồi không trở ra lần nào nữa. Lúc thanh toán bữa ăn, tôi nhờ bà chủ chuyển món tiền thưởng cho Suchia. Bà cho biết cô bé đã xuống thuyền, tiếp tục đi giao hàng. Thì ra ở đây nhà nào cũng có hai lối, đàng trước ra đường bộ, đàng sau xuống đường sông.
Trả tiền vừa xong, một bàn tay vỗ bộp vào vai tôi, nặng trịch. Ngoảnh lại, là ông râu quai nón cao lớn bàn bên đã đứng sau lưng: “Vài ly kết nghĩa được hông?”. Trông vẻ mặt tôi hoang mang, ông thêm: “Bọn tui chưa từng ra “nước Huế”, muốn nghe chuyện của anh thôi”. Nhìn bốn năm gương mặt cháy nắng nửa chất phác nửa giang hồ đang tròn mắt chờ câu trả lời, tôi lâng lâng cảm giác mình đã một bước lạc vào cảnh giới phương Nam và khấp khởi tin thiên phóng sự sắp tới sẽ đầy ắp chi tiết độc.
Lơ mơ thức giấc, đầu nhức như búa bổ, tôi nhổm dậy, ngơ ngác thấy mình trên một bè tràm, mặt sông lai láng ánh trăng khuya, ba lô và túi máy ảnh bên cạnh. “Tỉnh rồi hả?”. Tôi giật mình quay về phía phát ra giọng khàn vỡ. Là một ông cụ Khmer cao gầy, râu tóc bạc, đầu bối củ tỏi, ngồi vá lưới nhìn tôi với ánh mắt theo dõi. Suchia chợt ló ra từ túp lều dựng bằng dừa nước ở cuối bè, đến ôm vai ông cụ: “Đây là ngoại của em”. Hóa ra khi trở lại nhà hàng thu tiền cô bắt gặp cảnh tôi say bí tỉ, bèn giải thoát tôi khỏi cuộc rượu xây chừng chưa biết lúc nào kết thúc và rước tôi về giao cho ông ngoại chăm sóc.
“Nó đói rồi đó”, già Prum nói với Suchia và sai cô chọn một chú rùa hảo hạng. Giữ chặt đầu con rùa, ông mồi từng muỗng rượu nhỏ vào miệng nó cho đến khi nó bài tiết phân đen, mồi rượu tiếp, ra phân nâu và cuối cùng “đầu vào” rượu trắng “đầu ra” cũng rượu trắng. Mở mai bụng con rùa, già làm ruột, tẩm gia vị, dùng dây thép ốp trở lại, đặt ngửa trực tiếp lên lò than đước rực hồng. Biết tôi lạ lùng, Suchia giải thích cái mai giữ được mùi thơm hơn soong nồi bằng đất, bằng nhôm lại có thể tự điều tiết nhiệt độ rất khéo. Mỗi khi quá nóng, nó phồng rộp, xì nước làm dịu lò than, cho đến khi món thịt rùa chín tới thơm lựng, thoang thoảng vị ngọt vôi nướng độc đáo. Một bữa ăn khuya nhớ đời.
Nghe tôi vào Nam thu thập tư liệu viết báo, già Prum nói sáng mai ông về Gò Công Đông thắp hương nhà thờ tộc mới sửa xong, nếu tôi muốn thăm Đám Lá Tối Trời thì đi cùng. “Di tích đó có nhiều nhà báo tìm tới lắm nha,” ông thêm. Tôi mừng rỡ nói cảm ơn. Già Prum bảo đồng bằng sông Cửu Long vô thiên lủng kênh rạch, là thiên đường của cây dừa nước, nhiều vùng tán lá của chúng đan dày đến mức ánh mặt trời không soi lọt, từ đó trong dân gian gọi trùng địa danh là dễ hiểu. Có ít nhất bốn Đám Lá Tối Trời ở Long An, Trà Vinh, Tiền Giang và Sóc Trăng, tất cả đều là nơi ẩn náu đắc địa của quân kháng chiến, từ chống Pháp đến chống Mỹ. Nhưng Đám Lá Tối Trời ở Gò Công Đông - Tiền Giang mới là di tích căn cứ nghĩa quân dưới quyền Quản cơ Trương Định, người được bà con Nam Bộ tôn làm Bình Tây đại nguyên soái.
Sau tám tiếng đồng hồ ngồi xe khách, chúng tôi đến Gò Công Đông. Già Prum mướn xuồng vỏ gòn gọn nhỏ của người bà con, đưa tôi qua những con rạch chằng chịt dưới vòm rừng dừa nước khép tán. Ông chèo khẽ khàng như sợ làm vỡ không khí thâm nghiêm chung quanh. Còn tôi lặng trôi theo dòng cảm thức lịch sử, nhớ những trang hồi ký của Léopold Pallu, một đại úy người Pháp, viết về ngày cuối của anh hùng Trương Định sau năm năm tiên phong chủ động đánh giặc Pháp xâm lược. Rạng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864, Việt gian Huỳnh Tấn dẫn quân Pháp đột kích Đám Lá Tối Trời, Trương Định cùng 25 nghĩa quân chiến đấu dũng mãnh. Phá được vòng vây thì trúng đạn vào lưng, ông liền tuẫn tiết bằng thanh gươm của mình, lúc ấy mới 44 tuổi. Cuốn hồi ký cũng miêu tả chi tiết về 18 nghĩa sĩ Đám Lá Tối Trời chấp nhận bị bắt sống để được tự tay đưa thi hài chủ tướng xuống tàu, về Gò Công an táng. Sợ sĩ khí 18 hảo hớn thổi bùng ngọn lửa kháng chiến, Tấn cùng quân Pháp đưa họ ra pháp trường, gọi từng người một lên dụ hàng, ai không chịu, chém. Chúng cố tình xếp người phụ nữ duy nhất vào lần gọi cuối để mong tìm sự yếu đuối, khiếp hãi. Nhưng tất cả đều cam chịu rơi đầu. Tác giả hồi ký đã lên xe rời bãi chém khi cô gái, người thứ 18, người đã chịu đựng 17 lần chết trước mắt, từ chối đầu hàng. Ông ta không đủ can đảm chứng kiến đến cùng tấn thảm kịch. “Nếu 18 người này là người Pháp, bảo vệ nước Pháp thì sao? Họ sẽ được tạc tượng đồng đặt trong điện Louvre? Có thể”. Ông ta đã viết như vậy. Qua lời kể của già Prum, tôi còn ghi nhận thêm đôi điều về sự tích một vài trong số 18 tám nghĩa sĩ. Có người là tú tài, có người là thầy tu, có người là thầy võ, có người là nông dân, có người chuyên nghề bắt cá sấu. Tôi quan tâm đến số phận cô gái anh hùng. Nhưng ông già lắc đầu, nói chỉ biết là tên Thu.
Hôm sau, từ Đám Lá Tối Trời về tới Đất Mũi, mặt trời còn lơ lửng trên đỉnh rặng đước cuối chân trời, già Prum dẫn tôi thẳng vào quán nhậu ven sông, nơi các bạn và đệ tử của ổng, không dưới mười người, đang nóng lòng đón khách “nước Huế”. Chỉ với một ly rượu dùng chung, chuyền quanh bàn, hết vòng này đến vòng khác, như bất tận. Cuộc xây chừng đang hăng thì tôi đã ngà ngà. Suchia từ đâu xuất hiện, nhặt ba-lô của tôi đeo lên lưng, một tay xách bộ chân máy ảnh, một tay vừa nâng vừa kéo tôi ra khỏi bàn: “Đi kẻo trễ”. Ngượng với mọi người, tôi trì hoãn: “Đi đâu giờ này?”. “Bộ ông không muốn viết báo về chợ đêm?”. Rồi bất chấp lời phản đối cũng như tiếng cười trêu của mọi người, trong đó có cả già Prum, Suchia đưa tôi ra khỏi quán, xuống thẳng xuồng máy.
Tưởng Suchia lập mưu cứu tôi khỏi trận say, hóa ra cô ấy nói thật. Trên đường, Suchia hỏi thăm chuyến đi của tôi: “Ngoại em có cho ông biết cụ cố của ổng là một trong số 18 nghĩa sĩ Đám Lá Tối Trời?”. Tôi ngạc nhiên lắc đầu. Rồi nhớ ra điều bất thường, tôi hỏi Suchia: “Anh-chàng-cá-sấu?”. “Đúng rồi! Sao ông có thể đoán hay dậy?”. “Bởi ông cụ dành nhiều thời gian nói về một nhân vật ông hiểu rõ nhất, lại là người Khmer: anh-chàng- cá-sấu!”.
Nhờ mẩu chuyện sưu tầm ấy, tôi được thư ký tòa soạn Lao động Chủ nhật lúc bấy giờ là nhà báo Chánh Trinh thưởng một chầu bia tại câu lạc bộ báo chí quốc tế. Anh còn cao hứng chia sẻ với mấy nhà báo nước ngoài chung bàn. Tóm gọn thế này: Giỏi nghề bắt cá sấu, một chàng trai Khmer được người Gò Công Đông gọi thân mật là anh-chàng-cá-sấu. Chính trải nghiệm từ cái nghề nguy hiểm ấy đã góp phần làm nên chiến thuật có một không hai trong lịch sử chiến tranh du kích: Cầu sấu. Sau mỗi trận công đồn chớp nhoáng trong đêm, đội cảm tử rút về căn cứ Đám Lá Tối Trời, nơi được đầm lầy bao bọc. Ở đó, họ dùng cây sào dài buộc con vịt sống làm mồi nhử, lập tức cá sấu kéo đến, đông chật. Đúng lúc, đội du kích vượt đầm lầy bằng cách chạy băng trên lưng lũ cá sấu đang chèn cứng vào nhau. Giặc Pháp đuổi tới nơi, mất dấu nghĩa quân, chỉ thấy cá sấu hung hăng dưới đầm dậy sóng, không thể nghĩ ra họ đã “qua cầu sấu”. Chúng bắn vài phát hú họa rồi quay về.
Không biết chuyện thật bao nhiêu, thêu dệt bao nhiêu, nhưng nó ăn sâu vào tâm trí tôi. Tôi cũng yêu chàng tú tài muốn tham gia đội cảm tử nhưng không đủ gan “qua cầu sấu”. Đã có những nghĩa quân không chết vì súng đạn giặc Pháp nhưng lại làm mồi cho cá sấu trên đường rút. Rồi một lần, anh tú tài thắng nỗi sợ, vượt “cầu sấu” về bản doanh an toàn. Mọi người chúc rượu, anh tú thành thật nói nếu không có tụi Pháp dí sau lưng thì không bao giờ làm nổi điều điên rồ đó. Bây giờ người Gò Công Đông vẫn dùng thành ngữ “qua cầu sấu” để chỉ người đủ bản lĩnh vượt thử thách trong đời.
Suchia tắt máy, chèo tay bì bõm. Tôi ái ngại: “Hết dầu hả em?”. “Dạ không phải, qua khỏi khúc quanh trước mặt là Cù lao Leak, nơi họp chợ đêm. Ngay cả ngoại em cũng không thể biết chợ có tự bao giờ. Bà con giữ lệ xưa, không dùng máy nổ, không thắp đèn điện, nói với nhau nhỏ nhẹ, càng yên ả càng tốt”. Tôi gật gù tán thưởng: “Lạ và hay quá. Thành ngữ “ồn như cái chợ” không có chỗ ở đây”. Rồi chợt lo lắng: “Vậy là tôi không được dùng flash để chụp ảnh ở chợ đêm?”. “Dạ…”. Tôi bỗng nhớ một câu thú vị đọc được ở đâu đó, đại ý điều kiện ánh sáng không thể khuất phục một nhiếp ảnh gia thật sự. Tiếc rằng tôi chỉ là tay máy nghiệp dư.
Trong đêm, từ các nhánh sông, các con đường, ánh đuốc bập bùng chầm chậm chảy thành dòng về điểm hẹn chung. Rồi tôi trông thấy một góc cù lao được thắp sáng bởi rất nhiều ngọn đuốc. Chuyện phân lô mua bán thật tự nhiên và gần như phụ thuộc vào việc phối sáng. Ai đến trước, chọn vị trí vừa ý, cắm cây sào tre cao quá đầu xuống đất bùn, cắm ngọn đuốc lên. Người đến sau chọn nơi mà ánh đuốc của mình bắt nối ánh đuốc kẻ đến trước, cứ thế tiếp tục, không có chỗ cho khoảng tối trong phiên chợ. Và khi đuốc tàn cũng là lúc chợ vãn. Suchia cho biết ngày xưa chợ bán đủ thứ, từ cây kim đến con cá sấu. Giờ chỉ toàn đặc sản thôi, các thứ khác đã có chợ hàng xã, hàng huyện. Lát sau muội khói khiến tôi ho sặc sụa. Suchia đưa tôi ra bến thuyền ngồi hóng gió. Tôi nhận xét: “Không ngờ đông thế này”. Suchia giọng phảng phất buồn: “Dạ bình thường hổng được như vầy. Mỗi năm mỗi vắng thêm. Đêm nay mọi người đổ xô đến như muốn lưu giữ kỷ niệm. Cù lao đã được giao cho một doanh nghiệp chế biến thủy sản”. Trong tôi dấy lên niềm tiếc nuối, đồng thời nhận ra rằng tình cờ tôi là nhà báo may mắn chớp được bộ ảnh phiên chợ đêm trước khi trở thành ký ức.
Trăng xế bóng khi chúng tôi cập bến dành riêng cho nhà khách huyện Năm Căn. Suchia đã chuyển ba lô, chân máy ảnh lên bờ, tôi vẫn chần chừ tại chỗ. Quay lại, cô đưa tay làm điểm tựa giúp tôi nhảy khỏi mũi xuồng chòng chành. Sau mấy lời tạm biệt và chúc nhau ngủ ngon, xuồng rời bến. Đến giữa dòng ngoảnh lại, thấy tôi vẫn chần chừ, Suchia bật cười khúc khích, nói với: “Ông là chàng tú tài, phải có ai dí súng sau lưng mới đủ gan “qua cầu sấu”, đúng hông?”.
“Ông còn nghe máy đó hông?”. “Còn...”.
“Tú tài ơi, nói gì với em đi”.
“Thắp giùm tôi nén hương lên bàn thờ ngoại Prum nghe”.
“Dạ…”.
V.Q