Thương ngàn - những rạn nứt sinh thái
Không sai khi nói rằng, Thương ngàn của nhà văn Vĩnh Quyền là tác phẩm hiếm hoi trong dòng văn học sinh thái của Việt Nam. Bởi lẽ, dấu ấn môi trường sinh thái trong văn học Việt Nam thì nhiều, trải dài từ văn học truyền miệng, qua các thời kỳ khác nhau của văn học viết, nhưng những tác phẩm đảm bảo tất cả các yếu tố của văn học sinh thái thì không nhiều. Bằng sự am hiểu về tự nhiên, khối tư liệu khoa học được xử lý công phu và những trải nghiệm sinh thái mà một nhà báo “cự phách” có được, Vĩnh Quyền đã thể nghiệm thành công vấn đề chấn thương tự nhiên, thẳng thắn chỉ rõ những vết sẹo sinh thái và mối quan hệ ngày càng xấu đi giữa con người với trái đất. Tiểu thuyết Thương ngàn có kết cấu 11 chương, tựa như “11 mảnh vỡ sinh thái” được Vĩnh Quyền liên kết bằng “sợi dây” cảm thức sâu sắc hướng về thế giới tự nhiên. Những nỗ lực “giải trung tâm” của Vĩnh Quyền trong Thương ngàn không đi theo trật tự quen thuộc thông thường, nghĩa là khởi đầu từ cuộc khủng hoảng sinh thái, tiếp đến là hệ quả, cuối cùng là kêu gọi và đề xuất giải pháp nhằm giảm thiểu những rủi ro sinh thái. Ngược lại, câu chuyện Thương ngàn được Vĩnh Quyền “đập” ra thành nhiều “mảnh vỡ”, kết hợp với kiểu trần thuật phi tuyến tính. Câu chuyện về nhân vật “tôi” - một trí thức Huế “nghiện rừng”, câu chuyện huyền thoại “mùa săn máu” của đồng bào Katu và câu chuyện của người cộng sự từng tham gia giải cứu động vật trong vụ cháy rừng thương tâm ở nước Úc được Vĩnh Quyền khéo léo đan xen, xoắn xuýt, chồng chéo lẫn nhau.
Đặc trưng tiểu thuyết của Vĩnh Quyền là sự phân mảnh (fragmented), có vẻ như nhà văn không chấp nhận để cốt truyện, nhân vật tồn tại trọn vẹn mà phân tách ra thành nhiều mảnh vỡ, thậm chí là “mảnh vỡ của mảnh vỡ” (Debris of Debris - tên một tiểu thuyết khác của Vĩnh Quyền được dịch sang tiếng Anh). Thương ngàn cũng không ngoại lệ. Mặc dù cả cốt truyện, nhân vật, không gian và thời gian trong tiểu thuyết Thương ngàn bị cắt mảnh, bởi “người ta thôi không còn tin vào những cái tròn trịa, đầy đặn, dễ nắm bắt… thì “vỡ” tức là tiêu chí bản chất của sự vật” (Lê Huy Bắc), nhưng chung quy lại, đó là những mảnh vỡ sinh thái mà nhà văn kiến tạo. Việc cắt mảnh, đập vỡ trong tác phẩm không làm cho người đọc khó nắm bắt câu chuyện, mà phản ánh một thực tại phức tạp, đa chiều, đôi khi hỗn loạn của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Khủng hoảng, đứt gãy, chấn thương tự nhiên là vấn đề nhức nhối mà Vĩnh Quyền tập trung thể hiện trong từng mảnh vỡ sinh thái. Dưới sự tác động tiêu cực của con người, đặc biệt là hành vi khai thác trái phép dẫn đến kiệt quệ, thiên nhiên rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Thực trạng đó đã được Vĩnh Quyền khéo léo lồng ghép trong Thương ngàn, bằng một lối văn vừa đậm tính khoa học, vừa giàu chất văn chương. Trong đó, chấn thương của rừng già là điểm mấu chốt mà nhà văn tập trung thể hiện.
Là người con của xứ Huế, một thành phố cổ giàu trầm tích văn hóa, hệ sinh thái đa dạng với thảm thực vật phong phú, Vĩnh Quyền gắn mình với thế giới tự nhiên. Tác giả quan sát, nghiên cứu hiện trạng môi trường thiên nhiên, nhận thức rõ sự biến đổi của tự nhiên dưới tác động của con người. Được thiên nhiên ưu ái ban tặng những cánh rừng nguyên sinh, đặc biệt là rừng Bạch Mã từ lâu vốn là một biểu tượng cho thiên nhiên dãy Trường Sơn Bắc; thế nhưng, thói vô trách nhiệm, sự ích kỷ và lòng tham của con người đã gây ra tình trạng rạn nứt sinh thái. Hành vi tận diệt thiên nhiên hiện rõ trong từng trang viết của Vĩnh Quyền. Sự kết hợp giữa ngòi bút tự sự chấn thương của lý thuyết chấn thương và lối viết sinh thái của văn học sinh thái đã giúp Vĩnh Quyền tái hiện vừa bao quát, vừa chi tiết thực trạng thiên nhiên, minh chứng cho tư duy chủ quan, phiến diện của con người khi cho rằng “nhân loại là trung tâm” (anthropocentrism). Theo hành trình của nhân vật “tôi” - người đang thực hiện dự án “Hành Lang Xanh” phục hồi những cánh rừng nguyên sinh bị tổn hại, có thể thấy, thiên nhiên trong Thương ngàn đớn đau, rên xiết dưới bàn tay dã man của con người. Hình ảnh “con khỉ mặt đỏ chưa đến một năm tuổi bị rao bán trước cửa hàng” mà nhân vật “tôi” chứng kiến, “cái nhìn con chim là miếng thịt tươi biết bay” và “con người có thể ăn thịt những loài chim đặc hữu Việt Nam, được các nhà khoa học vinh danh “báu vật quốc gia”, như khướu Ngọc Linh”, phản ánh tình trạng săn bắt trái phép các loài động vật quý hiếm đang ngấm ngầm diễn ra. Vĩnh Quyền mở đầu câu chuyện về “tục săn máu” của đồng bào Katu bằng dấu ấn về sự đổi thay của thiên nhiên Trường Sơn: “Hai năm rồi thời tiết thất thường, năm nay hạn còn gay gắt hơn. Rừng tre đã chuyển thành mảng vàng úa giữa nền thường xanh Trường Sơn. Cây trồng cũng không ngoại lệ. Vào cuối thu, đến kỳ thu hoạch vụ ba trăng, mà lúa ngoài rẫy khô dòn như rơm dưới sức nóng thiêu đốt của mặt trời”. Khung cảnh những dãy núi sạt lở mà trong cảm nhận của người kể chuyện, đó là “hậu quả nhãn tiền của tầm nhìn ngắn hạn trong khoa học”, cũng được mô phỏng lại, cho thấy bộ mặt sinh thái của Trường Sơn không còn giữ nguyên dáng vẻ sơ khai: “Sau tiếng nổ trầm đục mà dữ dội phát ra từ lòng quả núi bên đường, trên trăm mét cao một khoảng rừng keo trồng bục tách, cùng đất đá xô nhau lao xuống, hở lộ mảng sườn núi đỏ ối như máu trong mưa. Trên trời chim nháo nhác bay, dưới đất lợn chó chạy tán loạn. Tiếng kêu “cứu người”, “cứu người” lạc lõng thê lương giữa vùng trung du chỉ mươi nóc nhà”. Tất cả những biến đổi trên không còn là tín hiệu dự báo, mà đích thị là sự bùng nổ của những thảm hoạ tự nhiên.
Không dừng lại ở đó, Vĩnh Quyền tiếp tục mở rộng phạm vi chấn thương sinh thái, nhằm khẳng định đứt gãy sinh thái là vấn nạn đã và đang diễn ra trên toàn cầu. Vụ cháy rừng nước Úc cuối năm 2019, đầu năm 2020, được nhà văn khéo léo lồng ghép trong câu chuyện nhân vật Kiên kể cho “tôi” nghe. Ở đây, Kiên đóng vai trò là người trải nghiệm (nhân vật chứng nhân) và thuật lại tình trạng chấn thương rừng ở Úc, trong đó, chấn thương của muông thú được nhân vật Kiên đặc biệt quan tâm: “Có lẽ trước đó các loài thú nhanh nhạy khác như kangaroo, hươu, nai… đã kịp phóng đến những khoảng rừng chưa bén lửa. Chính vẻ đủng đỉnh ngây ngô đáng yêu của koala đã hạn chế khả năng thoát hiểm. Thay vì lánh càng xa ngọn lửa càng tốt, chúng leo lên cây gần nhất, ngồi thu lu trông như quả cầu. Thật đau lòng chứng kiến cảnh những con koala xấu số ôm chặt thân cây, cùng cháy rồi cùng rơi rụng”. Những hình ảnh đó không xuất phát từ trí tưởng tượng của nhà văn, mà là hiện thực cháy rừng nhức nhối ở “xứ sở Kanguroo” làm chấn động nhân loại về hậu quả của việc tận diệt thiên nhiên của con người. Bởi thế, diễn ngôn chấn thương sinh thái của Vĩnh Quyền có sự kết hợp hài hòa giữa tính thời sự, tính khoa học và tính văn chương.
“Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã đem đến cho con người nhiều tiện nghi đồng thời cũng đẩy con người đến cuộc đối đầu trực tiếp với thiên nhiên” (Trần Thị Ánh Nguyệt). Vốn dĩ, con người được thiên nhiên ưu ái ban cho rất nhiều thứ quý giá. Thế nhưng, khi con người đối xử tệ bạc với thiên nhiên, bức tử tự nhiên vì lợi ích trước mắt, thiên nhiên sẵn sàng “trả thù” con người. Trong cơn thịnh nộ của thiên nhiên, con người trở thành nạn nhân hứng chịu những hậu quả thảm khốc nhất của cuộc khủng hoảng. Trong ký ức của nhân vật “tôi”, cảnh tượng đồng loại bị thiên nhiên nuốt chửng, sinh mệnh con người mong manh trước sức mạnh của tự nhiên, trở thành nỗi ám ảnh sâu đậm: “không quên ánh mắt ngơ ngáo chết điếng của vợ chồng Bảy Trầu trước núi đất đá cây cối đỏ ngầu chồng lấp vào chỗ vốn dĩ là nếp nhà bao năm tích cóp mồ hôi của họ”, “sẽ còn ám ảnh tiếng bé gái thất thanh trong gió ngàn gào tên con mèo cưng mất tích”. Sau khi bị con người bóc tách dã man, những ngọn núi, đồi từ lâu tạo nên phong cảnh hùng vĩ của đất nước, đã sạt lở kinh hoàng, vùi lấp bao người vào sâu trong lòng đất. Câu chuyện về thảm họa của con người khi đánh mất tự nhiên trở nên chân thực hơn khi Vĩnh Quyền đan cài sự kiện sạt lở tại thủy điện Rào Trăng vào mùa đông năm 2020 trong dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi”. Hậu quả để lại là “tình cảnh xót xa mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha ngày cận Tết”. Dưới ngòi bút phản tư sinh thái, nhà văn đã “truy tìm nguồn gốc của nguy cơ sinh thái” (Bùi Thanh Truyền), “chỉ ra căn nguyên của những thảm họa môi trường hiện nay xuất phát từ tư tưởng thống trị tự nhiên, tự coi mình là chúa tể, khai thác, chiếm đoạt, chém giết, đối xử bất nhẫn, vô trách nhiệm mà không chú ý đến sự phát triển bền vững” (Bùi Thanh Truyền). Từ sự kiện đau lòng tại Rào Trăng, người kể chuyện trong Thương ngàn đã dũng cảm “thú tội” với tự nhiên về hành động tận diệt sai trái, tàn nhẫn của con người: “Thư đã dùng phép nhân hóa, gọi hiện tượng mưa lũ kéo dài và vỡ núi dồn dập trong tháng 10.2020 tại miền Trung là cuộc trả thù của tự nhiên dành cho con người về hành vi gây thương tổn thế giới tự nhiên. Tôi thì không muốn gán cảm tính hay thuộc tính của người cho tự nhiên. Thiên tai ngày càng nhiều càng dữ dội là kết quả của diễn tiến biến đổi khí hậu mà con người là một tác nhân, cộng với mức khai thác tự nhiên vượt ngưỡng an toàn, lại cũng do con người. Tự nhiên trở nên cực đoan là hệ quả, không hề mang chứa lòng oán hận hay ý chí trả thù”. Đó là cái nhìn đầy bao dung của Vĩnh Quyền về thiên nhiên, đồng thời xác định việc thiên nhiên bị khủng hoảng ảnh hưởng đến sinh mệnh con người là kết quả tất yếu chứ không phải vì thiên nhiên “trả thù”, “oán hận”.
Với lối viết chấn thương sinh thái cùng thủ pháp “mảnh vỡ” của văn chương hậu hiện đại, Vĩnh Quyền đã tái hiện trong Thương ngàn bức tranh sống động về thiên nhiên trong mối quan hệ không thể tách rời với con người. Ở đó, nhà văn đặc biệt chú ý kiến tạo những “mảnh vỡ sinh thái” đang bị tổn thương nghiêm trọng. Từ sự suy giảm nguồn lợi tự nhiên đến cuộc khủng hoảng kinh hoàng của thiên nhiên, mỗi chi tiết trong Thương ngàn đều khắc hoạ rõ nét sự chấn thương mà hệ sinh thái phải gánh chịu. Bên cạnh đó, Thương ngàn còn khơi nhắc những ký ức chấn thương của thiên nhiên miền Trung trong suốt chiều dài lịch sử. Nhìn thẳng thực trạng tự nhiên và dũng cảm “thú tội” trước thiên nhiên là biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn sinh thái mà Vĩnh Quyền thể hiện trong tác phẩm.
P.K.D