Tiếng vọng miền ký ức

29.08.2025
Long Vân

Tiếng vọng miền ký ức

Quán mỳ chị Hai Thời nằm cạnh ngã ba chợ Tổng, nơi giao nhau giữa quốc lộ 1 và tuyến đường nhựa dẫn về hướng phố cổ Hội An. Từ Bắc xuôi Nam theo đường cái quan, qua khỏi làng đúc đồng Phước Kiều, tôi hãm phanh xe, bật xi nhan rẽ trái. Lần nào về thăm quê, tôi cũng không quên ghé quán mỳ chị Hai Thời để ăn sáng. Tấp xe đậu sát lề, cạnh ngôi miếu nhỏ. Vừa mở cửa xuống xe tôi đã bị vây bọc bởi cái nóng hầm hập đến gai người. Đã vào cuối hạ, mặt trời mới nhô lên khỏi ngọn tre chừng con sào, nhưng gió nam thổi thông thốc. Gió nóng như đem lửa hơ mặt. Trong sách vở tôi học thời trung học, đây là gió phơn Tây Nam. Từ núi Hải Vân trở ra, người dân Bắc miền Trung gọi gió Lào. Vì gió mang cái nóng gay gắt từ hướng đất Lào vượt dãy Trường Sơn đổ về. Còn từ Đà Nẵng trở vào Quảng Ngãi thì gọi là gió Nam. Người xứ Quảng gọi vậy để phân biệt với gió nồm, hay gió nờm, thổi từ biển lên, mát rượi.

Nhìn sang quán. Vợ chồng chị Hai Thời đang tất bật bán mỳ buổi sáng. Nghe đâu, từ sau dạo chị được vinh danh “Đệ nhất mỳ Quảng Phú Chiêm”, khách nườm nượp kéo đến quán. Nhưng chị chỉ bán vào buổi sáng. Chừng 3 tiếng đồng hồ, từ 7 đến 9 giờ là đi vèo hơn cả tạ mỳ xắt. Xong, đóng cửa quán. “Sức đâu mà bán cả ngày  em!  Cái  nghề  ni  cực  lắm!”. Có lần tôi hỏi, chị trả lời vậy. Tôi thắc mắc, chị kể tường tận. Sáng bán xong đóng cửa quán phải tất tả chạy chợ. Mớ tôm, con cua, miếng thịt heo dù đã đặt trước người bán, nhưng cũng không yên tâm. Chị phải tận tay lựa chọn kỹ càng, thật tươi sống. Đến khi mua đầy đủ nguyên liệu thì ngay lập tức quay về nhà, xoắn tay áo rửa sạch sẽ và sơ chế liền. “Làm liền thì sáng hôm sau dậy nấu nước nhưn mới thơm ngon. Còn để vào tủ lạnh, mang ra nấu, nồi nước nhưn sẽ mất vị đậm đà, thơm ngọt”, chị bảo. Và trong lúc chị sơ chế nhưn mỳ, anh Hai - chồng chị, lụi cụi lo khâu làm rau sống. Rau ăn mỳ là rau của làng Trà Quế, Hội An. Mua về lượm lặt tỉ mỉ từng cộng, bỏ đi những lá rau trở màu úa, chỉ để lại phần tươi non. Cả khâu xắt búp chuối sứ trộn chung với rau, phải xắt từng lát không dày, không mỏng, người ăn mới được thưởng thức vừa đủ độ giòn sật, hăng nồng, chát ngọt. Đậu phụng rang xong chờ chừng vài ba phút. Lúc hạt đậu còn ấm ấm là chà, sảy bỏ vỏ, giã và cho vào hũ đậy kín, mới giữ cho đậu thơm, béo giòn. Còn ớt thì lựa trái xanh. Nhưng không già, cũng không non, đủ để thực khách khi cắn trái ớt là được tận hưởng vị cay se se, tê tê đầu lưỡi mới đúng điệu. Chỉ mỗi việc đi chợ, sơ chế nhưn mỳ, làm rau sống đã mất cả buổi chiều. “Đêm tới, chập chờn giấc ngủ đến chừng 3 giờ sáng hôm sau phải dậy, chồng lo nhóm bếp tráng mỳ, vợ lo chế biến nước nhưn, sao cho để kịp 6 giờ  rưỡi  là  gánh đến  quán  bán  cho  thực  khách…”. Nghe chị Hai Thời bày tỏ tôi mới hiểu để có được bát mỳ Phú Chiêm “chính hiệu” cho thực khách thưởng thức cũng lắm công phu, tỉ mẩn chẳng thua kém nghề chơi bonsai cây cảnh. Bởi thế mà có rất nhiều người mở quán bán “Mỳ Quảng Phú Chiêm”, nhưng đâu phải quán nào cũng đông khách...

Bên trong quán, hôm nay chị Hai Thời mặc chiếc áo bà ba vải xoa màu xanh. Chiếc áo không rộng đến độ thùng thình, cũng không bó sát thân, chỉ đủ gọn gàng ôm lấy tấm lưng còng do bệnh thoái hóa cột sống, cùng với chiếc quần lĩnh đen sạch sẽ. Anh Hai cũng nổi bật không kém cạnh vợ. Với tầm vóc trung bình, gầy gò trong chiếc áo sơ mi xanh lơ đã phai màu đến gần như trắng, bỏ lửng ngoài quần tây xanh bạc phết, khiến bất kỳ ai mới gặp cũng nhận biết anh sống khá đơn giản, thậm chí dễ dãi. Tôi bước sang đường. Chân chưa chạm đến cửa quán thì chị Hai Thời đã ngừng tay làm mỳ đưa mắt trông ra. Thấy tôi, chị cười xởi lởi: “Em bữa ni về lại nhà đó hả?”.

Chất giọng Quảng Nam mộc mạc, ấm áp tình cảm gia đình như được hòa trộn chung với mùi vị cay nồng, có màu đỏ thắm do thói quen ăn trầu của chị khiến cho tôi khựng người lại đầy ngạc nhiên: “Ủa? Chị hỏi vậy là có ý gì?”.

Chị Hai Thời nhướng mắt nhìn tôi trân trân, lạ lẫm. Tôi định giải thích cái sự ngạc nhiên đang trào dâng thì bị cắt đoạn do ngoài đường có một đoàn xe đám cưới từ làng Thanh Chiêm chạy ngược lên hướng quốc lộ. Đoàn xe đám cưới, có lẽ đi rước dâu, có đến 9 chiếc ô tô 4 chỗ đời mới màu sơn trắng muốt, sang trọng; trên nắp ca pô, hai bên thành và phía sau mỗi xe đều được trang trí những đóa hoa hồng nhung tươi thắm. Tôi nhìn đoàn xe cưới và có được cảm nhận đời sống người dân ở vùng quê giờ đây đã khấm khá hơn trước rất nhiều. Đang mùa nắng nóng nên khi đoàn xe đám cưới lướt qua cuốn bụi phía sau mù mịt. Cũng may, những trận gió nam ào ào từ phía quốc lộ thổi xuống, đám bụi thoáng chốc bị gió cuốn đi. Tôi bước vào quán, cười cười nhìn vợ chồng chị Hai Thời: “Dạ, em chào anh chị! Mà hồi nãy chị Hai nói vậy là có ý gì?”.

Nghe tôi lặp lại câu hỏi, chị Hai Thời nhíu mày khiến cho những vết nhăn trên trán chị hằn sâu hơn. Dường như chị định lên tiếng. Tôi nhanh nhảu cắt lời: “Em hỏi vậy là do trước đây lần nào chị cũng hỏi, em về thăm quê, chứ đâu nói về nhà”. Lúc này, khuôn mặt hằn in vết thời gian của chị Hai Thời mới giãn ra. Chị bật cười ha hả: “Thôi đi ông tướng ơi!... Bữa nay là bữa nào rồi mà còn nói quê với phố? Chừ ở đây là thành phố Đà Nẵng đó nghe!”.

Nhiều vị khách đang ăn mỳ trong quán cũng ngưng đũa ngước nhìn tôi và cười phá lên. Họ vừa cười vừa tranh nhau nói: “Chị nói đúng rồi!”, “Quá đúng rồi!”, “Còn quê đâu nữa mà về!”, “Hôm nay ở phố không về quê nữa mà về thăm nhà thôi đó nghe!”… À, thì ra thế! Tôi giật mình cười khỏa lấp. Công việc lu bù khiến tôi quên mất. Hôm nay ngày 01 tháng 07 năm 2025. Ngày được xem là một mốc son đặc biệt được ghi vào lịch sử hiện đại của Việt Nam. Bởi vì, đây là thời điểm chính thức vận hành bộ máy chính quyền địa phương hai cấp trên toàn quốc. Từ nay, một dải giang sơn gấm vóc được sắp xếp lại chỉ còn 34 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Tỉnh Quảng Nam được sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng. Cũng kể từ thời điểm này, theo chiều dài đường thiên lý Bắc - Nam, địa giới Đà Nẵng được bắt đầu từ Hải Vân đến tận Dốc Sỏi (Chu Lai, Núi Thành). Thảo nào, hai bên đường về rợp bóng cờ đỏ sao vàng phất phới.

Ngượng nghịu vừa cười vừa gật gật đầu cũng là để chứng minh tôi chấp nhận chịu thua chị Hai Thời trong việc cập nhật thời sự khá nhanh nhạy: “Chị hay quá! Em thua chị rồi!”.

Vừa bẻ bánh tráng cho vào bát mỳ bưng đến bàn tôi, anh Hai cũng nheo mắt cười hiền, từ tốn bảo: “Đêm qua chị Hai mi thức coi chương trình thời sự trên ti vi xong trằn trọc cả đêm không ngủ đó em. Bả cứ hỏi anh hoài: “Rứa là mình mất Quảng Nam rồi hả ông?”. Mà mất mần răng được em hỉ?”.

Tôi bần thần rồi bất ngờ buột miệng trả lời dứt khoát, chắc nịch, dù tôi có cảm nhận âm giọng của mình được phát ra từ cổ họng có dư vị đắng chát: “Đúng rồi! Làm sao mất được! Thay đổi địa giới hành chính chứ đâu có thay đổi vùng đất, thay đổi tính cách trong mỗi con người xứ Quảng đâu! Anh chị cớ chi mà phải lo nghĩ, phiền muộn…”. Tôi không rõ vợ chồng chị Hai Thời nghĩ gì. Nhưng tôi thấy cả hai đều cười. Nụ cười hiền hậu, thoáng chút cam chịu, đượm buồn. Tự dưng trong đầu tôi lại vang lên lời anh Hai lúc nãy: “Mần răng mất được!”. Tôi thừ người suy nghĩ. “Ừ, mần răng mất được!”. Bất ngờ chị Hai Thời thúc giục: “Ăn đi kẻo nguội em! Ăn mỳ lúc còn nóng mới ngon!”.

Không đợi chị giục thêm lần nữa, tôi đáp lí nhí rồi cầm đũa trộn bát mỳ cùng rau sống, đậu phụng rang cho thấm đều nước nhưn. Vừa ăn tôi vừa quan sát xung quanh. Vẫn những động tác đã thuộc nằm lòng. Chị Hai Thời vừa móm mém nhai trầu, vừa thoăn thoắt đôi tay bốc rau sống, mỳ trong hai chiếc rá nhựa cho vào từng bát để thành hàng trên bàn trước mặt. Tiếp theo, chị múc nước nhưn trong cái nồi đang được nấu sôi sùng sục, bốc khói tỏa mùi thơm quyến rũ bên cạnh chan vào từng bát mỳ mỗi khi có khách đến ăn. Anh Hai thì tất bật bê từng bát mỳ mà chị đã chan nhưn nóng hổi, thơm lừng đến tận chỗ ngồi của khách. Trên mỗi bát mỳ, anh không quên rắc thêm đậu phộng rang vào nhưn, kèm vài miếng bánh tráng nướng giòn rụm. Bàn ăn trong quán được bố trí hai dãy. Mỗi dãy bàn từng cụm vừa đủ 4 người ngồi. Có ống tre đựng đũa, muỗng sạch tinh tươm, cùng chiếc dĩa gốm, trên đó có dăm quả ớt xanh, vài ba lát chanh tươi rói, kề bên là chai nhỏ đựng nước mắm nhỉ. Những cái chai thủy tinh trong suốt hiển hiện màu hổ phách vàng óng của nước mắm nhỉ, tỏa vị thơm ngào ngạt qua cái lỗ nhỏ trên nắp chai… Có thể, thực khách ăn mỳ mỗi người có khẩu vị riêng. Nhưng tôi cam đoan, chỉ cần bước vào quán của chị Hai Thời giữa lúc nồi nước nhưn chị nấu tỏa mùi thơm ngào ngạt bởi sự hòa quyện của mùi gia vị pha trộn với mùi của thịt heo, của tôm, cua gạch được xào bằng dầu phụng, rim lửa vừa đủ, bay phảng phất trong không khí; cùng với mùi thơm rất đặc trưng của nước mắm nhỉ cứ như quấn quýt lấy chân người, thì khó ai cưỡng được mà không ngồi lại bàn ăn, xướng giọng: “Cho tôi một bát mỳ!”. Mà thật vậy, lần nào cũng thế, hễ bước chân vào quán chị Hai Thời là cái bụng của tôi như réo lên khiến khó kìm chế nuốt nước bọt vì muốn thưởng thức ngay bát mỳ Phú Chiêm đậm đà hương vị dân dã kia…

Nhắc đến quán “Đệ nhất mỳ Quảng Phú Chiêm”, chị Hai Thời thường cười cợt, khôi hài: “Nói rứa cho ngơm em!”. Thực tế, quán chỉ là cái chái hè tây của căn nhà ba gian đã xuống cấp, tường vôi bong tróc loang lổ. Cạnh cái chái có bờ rào chè tàu ngăn cách với đường bê tông dẫn vào làng đúc đồng Phước Kiều. Cái quán còn thêm phần sân trước hiên nhà được lợp bởi những tấm tôn đã rỉ sét. Xung quanh che lưng lửng tấm phên tre, cùng tấm bạt quảng cáo đã cũ. Nhưng, điều thực khách ít ai chú ý, cái quán mỳ này nằm ngay trên phần đất chợ Tổng xưa, dù bây giờ chợ không còn chút dấu tích nào…

*     *

*

Bồi hồi nhớ ngày thơ bé, mỗi khi rảnh rỗi nội tôi thường kể cho tôi nghe chuyện của bà lúc còn con gái. Trong những câu chuyện ấy, nội tôi hay nhắc đến chợ Tổng, ngôi chợ mà hằng ngày bà đến mua con cá, mớ rau; hoặc vào dịp giáp Tết Nguyên đán thì sắm cho ông cố ngoại tôi bộ áo the, khăn xếp mới; sắm cho mình cái quần lĩnh đen láng mịn…

Bà nội tôi không biết chợ Tổng ra đời vào thời nào. Nhưng trong trí nhớ của bà, chợ được xây dựng trên khoảnh đất lớn của làng Thanh Chiêm, ở giữa có một đình chợ khá khang trang. Nơi đây tập trung đông đúc thương nhân trong phủ Điện Bàn xưa và vùng lân cận đến mua bán, trao đổi hàng hóa. Chuyện kể của nội tôi như một gạch nối thêm trong tôi những tư liệu quý giá về một vùng đất. Theo sử sách, sau hai năm thành lập Dinh trấn Quảng Nam ở bờ bắc sông chợ Củi, cả vùng đất Điện Bàn được chúa Tiên Nguyễn Hoàng tách ra từ trấn Thuận Hóa để thăng lên thành phủ nhập về Quảng Nam vào năm 1604. Phủ Điện Bàn sáp nhập cả 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn, quản lĩnh 5 huyện gồm Tân Phúc, An Nông, Hòa Vang, Diên Khánh và Phú Châu. Tuy nhiên, danh xưng Quảng Nam đã có từ thời vua Lê Thánh Tông, vào năm 1471, khi nhà vua lập ra đạo Thừa tuyên Quảng Nam để khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Đại Việt. Còn việc thành lập các tổng của phủ Điện Bàn thì sách “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn viết, năm 1776, phủ Điện Bàn có 5 huyện, 12 tổng; đến thời nhà Nguyễn, Điện Bàn khi là phủ, khi là huyện, địa giới của các tổng cũng có nhiều thay đổi. Vào năm 1945, Điện Bàn có cả thảy 9 tổng, 115 làng. Như vậy, có thể khẳng định, chợ Tổng ở làng Thanh Chiêm được ra đời vào thời nhà Nguyễn. Bởi vì, bà nội tôi sinh năm Ất Tỵ - 1905 và khi bà lớn lên đã có chợ Tổng rồi.

Sở dĩ tôi nhắc đến chợ Tổng là do chợ nằm khá gần với Dinh trấn Quảng Nam. Di tích dinh trấn xưa, nay thuộc phường Điện Bàn, thành phố Đà Nẵng, toạ lạc bên con đường dẫn từ ngã ba chợ Tổng về hướng phố cổ Hội An, cách quán mỳ chị Hai Thời chừng nửa cây số. Trầm tích của vùng đất này còn lưu dấu bước chân tiền nhân mang gươm đi mở cõi phương Nam. Nơi đây cũng là cái nôi khai sinh chữ Quốc ngữ của nước ta...

Chợt nhìn sang ngôi miếu nhỏ phía bên kia đường, tôi hỏi chị Hai Thời: “Ngôi miếu thờ ai vậy chị?”. Chị nhỏ giọng nghiêm trang: “Miếu thờ thành hoàng bổn xứ đó em!”. Câu trả lời của chị Hai Thời khơi gợi lại trong tôi những năm  tháng đầy  khó  khăn  vào  cuối  thập  niên 70. Khi “phong trào” đập miếu, phá đình bài trừ phong kiến, mê tín dị đoan lan mạnh trên đất Quảng Vì “quá tả” mà nhiều đình, miếu thờ thành hoàng bổn xứ bị đập phá không thương tiếc. Những đình, miếu hàng trăm năm tuổi, với kiến trúc độc đáo; đường nét chạm trổ, điêu khắc hoa văn, bút pháp câu đối, liễn tinh xảo bỗng chốc bị hóa kiếp thành cát bụi. Ký ức như cuốn phim quay ngược thời gian. Tôi hồi tưởng lại cuộc tiếp xúc với ông Đoàn Văn Lộc, khi ông còn làm Chủ tịch UBND huyện Duy Xuyên (cũ). Nay ông Lộc đã về với cõi vĩnh hằng, nhưng tôi không sao quên được nét mặt đăm chiêu đầy vết nhăn của ông khi kể về dự án thủy lợi hồ Khe Thẻ suýt dìm cả khu đền tháp Mỹ Sơn xuống đáy hồ. Rồi chuyện hè nhau đập phá cổng tam quan Khổng Miếu, Hội An. Theo lời ông Lộc, ngày đó nếu không có sự ngăn cản, phản ứng quyết liệt, kịp thời của ông Hồ Nghinh, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng thì làm gì còn khu di tích đền tháp Mỹ Sơn và phố cổ Hội An để được UNESCO vinh danh là Di sản Văn hóa thế giới. Tại Điện Bàn, nhiều đình, miếu thờ thành hoàng bổn xứ cũng bị san thành bình địa. May mà đình làng An Nhơn, cạnh di tích dinh trấn Thanh Chiêm và ngôi nhà thờ Hiếu Chiêu Hoàng hậu Đoàn Quý Phi được họ tộc và người dân ngăn cản quyết liệt nên mới tồn tại. Thời gian đã chứng minh sự sai lầm đáng tiếc. Những cách nghĩ về thời phong kiến quá ấu trĩ cũng dần thay đổi theo cách nhìn đúng đắn, cùng với sự phát triển văn minh của xã hội.

Cách đây hơn 10 năm, nhiều làng xóm ở đất Quảng, người dân cùng nhau góp tiền xây dựng lại đình, miếu thờ thành hoàng bổn xứ. Theo tín ngưỡng dân gian, thành hoàng là vị thần trông coi vùng đất, là chỗ dựa tâm linh cho cả cộng đồng. Nhưng với người Quảng, việc thờ thành hoàng bổn xứ là còn thờ phụng, tưởng nhớ công lao những bậc khai quốc công thần, tiền nhân mở cõi, khai khẩn đất hoang, lập ấp, dựng làng. Mỗi xóm, mỗi làng hằng năm “xuân, thu  nhị kỳ” tế lễ để nhắc nhở cháu con giữ tròn đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, cũng là cầu mong cho quốc thái, dân an; mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống ấm no, hạnh phúc. Và ngôi miếu đối diện với quán mỳ chị Hai Thời được xây dựng cũng không ngoài giá trị thiêng liêng đó.

Tôi đã đến nhiều làng, xóm trên dải đất miền Trung vốn có bề dày văn hóa truyền thống phong phú và đa dạng. Khi nhắc đến việc thờ thành hoàng bổn xứ, có không ít vị cao niên khẳng định, vị thành hoàng đầu tiên đáng để thờ phụng, suy tôn thành bậc thượng đẳng thần là Huyền Trân công chúa nhà Trần. Bởi vì, tuổi mới trăng tròn, năm 1306, bà đã vâng mệnh vua cha Trần Nhân Tông và vua anh Trần Anh Tông, rời bỏ cung điện, gia tộc để vượt ngàn dặm đường sang Chiêm quốc làm vợ vua Chế Mân, đổi về cho Đại Việt hai châu Ô, Lý. Với công lao “mở cõi” của bà, từ thế kỷ 14, dải đất trọng yếu của chiếc đòn gánh miền Trung, từ sông Ái Tử (Quảng Trị) kéo dài đến bờ bắc sông Thu Bồn đã là đất đai của Đại Việt. Cùng với Huyền Trân công chúa là các bậc khai quốc công thần thời nhà Trần, nhà Lê, và về sau là các chúa Nguyễn, đặc biệt là Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, đã có công lớn trong việc mở rộng bờ cõi Đại Việt về phương Nam. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng trong lòng người dân xứ Quảng cũng được tôn vinh là bậc thượng đẳng thần…

*    *

*

Rời quán mỳ của chị Hai Thời, tôi lái xe xuôi về Gò Đinh, ghé thăm nhà nhạc phụ tôi ở cạnh làng Thanh Chiêm. Sinh thời cha vợ tôi thường nhắc đất này là làng Văn Đông. Ngôi nhà mái lợp ngói âm dương nhuốm màu rêu phong, nằm ẩn giữa vườn cây trái sum suê. Bên trong ngôi nhà năm gian cổ kính, theo thời gian những cây cột gỗ lim đã lên nước đen bóng. Nhớ đến lời chị Hai Thời lúc nãy, tôi đốt nén trầm hương cắm lên bát nhang trên bàn thờ và khấn trước di ảnh của cha mẹ vợ tôi, rằng “Con đã trở lại nhà!”. Khói hương trầm thơm ngát bay bảng lảng, mềm mại uốn lượn, quấn quýt trong ngôi nhà cổ xưa u tịch, như níu kéo ký ức tôi về hình ảnh người cha vợ ngoài 95 tuổi nhưng luôn chỉnh chu khăn đóng, áo dài trong những buổi tế lễ nhà thờ hay giỗ chạp. Mỗi lần vào lễ cúng, ông quỳ trước hương án, mái đầu bạc phơ cúi thấp, kính cẩn mở đầu bài khấn: “Việt Nam quốc, Quảng Nam tỉnh, Điện Bàn huyện, Văn Đông làng, Cần  Húc xứ”. Bài khấn cúng được lưu truyền qua nhiều đời trước mới đến đời cha vợ tôi. Nó như góp thêm tiếng nói khẳng định mảnh đất bờ bắc sông Thu Bồn này là xứ Cần Húc, cũng là nơi chúa Nguyễn dựng Dinh trấn Quảng Nam đầu tiên. Và điều đó, trong sách “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí” thời Gia Long thứ 5 (1806) và sách “Đại Nam nhất thống chí” thời vua Tự Đức cũng xác định, dinh trấn Quảng Nam lúc đầu ở xã Cần Húc, Văn Đông, huyện Diên Phước, sau dời lên xã Thanh Chiêm, Điện Bàn, giáp giới làng Văn Đông.

Vậy sông chợ Củi xưa ở đâu? Tôi bước ra bến sông phía bên kia đường cái, đối diện ngõ nhà. Đây là nhánh của sông Thu Bồn, người quê tôi gọi là sông con. Còn dòng Thu Bồn là sông cái. Nhánh sông con uốn cong hình cung, gầy guộc như cánh tay người con gái đang tuổi cập kê. Khởi đầu từ rìa làng Đông Khương kéo dài xuống hướng Cửa Đại đến hơn 5 cây số, sông con nhập lại sông cái, cong cong ôm lấy làng Triêm Nam  của tôi, biến ngôi làng trở thành ốc đảo. Qua sông thì phải lụy đò. Nhiều thế hệ sinh ra và lớn lên của làng tôi đã phải khản giọng gọi “Đò ơi!”. Tiếng gọi đò mỗi ngày cứ khắc khoải vang vọng trên sông. Hết đi đò ông Kẹo thì sang đò anh Được, con trai ông Kẹo. Cái ốc đảo lẻ loi trở thành thôn bãi lẻ. Có đôi lần vì bức bách chuyện cách trở đò giang, dân làng đốn tre góp lại làm cầu. Nhưng cây cầu tre lắt lẻo chỉ sử dụng mỗi mùa nước cạn. Mùa mưa, lũ lụt thượng nguồn tràn về, cầu tre lại bị cuốn trôi mất. Trong nhật ký của cha tôi vẫn còn lưu bút tích những câu lục bát về một miền quê nghèo. “Phú Chiêm mưa nắng dãi dầu/ Có thôn bãi lẻ, nhịp cầu cheo leo/ Trưa về nghe tiếng ve kêu/ Đêm đêm nghe giọng cô chèo bên sông”. Phú Chiêm là do cách phát âm chệch đi của người Quảng. Chính xác là Phú Triêm. Tổng Phú Triêm xưa đã được ghi trong nhiều sắc phong của các vua Nguyễn, nay gồm 3 thôn Triêm Nam, Triêm Đông và Triêm Tây. Đứng ở vùng đất màu mỡ ở cuối Triêm Nam, nơi sông con gặp lại sông cái, nhìn về phía Cẩm Kim, Hội An là đất Triêm Tây; còn phía bờ tả sông con là Triêm Đông. Phú Triêm được dân gian biến âm thành Phú Chiêm và món ăn đặc sản mỳ Phú Chiêm nổi tiếng đã in sâu vào tâm trí thực khách gần xa khi đặt chân đến vùng đất Quảng Nam…

Đi ngược nhánh sông về hướng thượng nguồn một đoạn, sông con nay đã bị bồi lấp chỉ còn lại lạch nước nhỏ. Người dân đôi bờ khai phá bãi bồi trồng hoa màu xanh ngát. Mặt trời lúc này lên cao, nắng lấp lóa. Cát lún theo từng bước chân như muốn níu giữ người về để kể lại chuyện một thời. Tôi nhớ mãi những lần được ông ngoại cho ngồi cùng ghe nan chống ngược nước sông con về bãi thượng. Đó là bãi đất ở ngay đoạn sông con tách khỏi dòng sông cái. Người lớn tỉa đậu, trồng khoai, còn tôi lội xuống một con hói nhỏ mò ốc, bắt vọp. Ông ngoại tôi là hậu duệ đời thứ 13 của tộc Đoàn Công ở làng Đông Yên xưa. Theo gia phả, ông là cháu của bà Đoàn Thị Ngọc, sau này là Hiếu Chiêu Hoàng hậu, cũng là Bà Chúa Tằm Tang xứ Đàng Trong.

Chuyện sông Chợ Củi gắn liền với dinh trấn Thanh Chiêm “trên bến dưới thuyền”, cùng với giai thoại chuyện tình đầy lãng mạn của Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan với bà Đoàn Thị Ngọc, chợt lướt qua dòng suy nghĩ trong tôi. Ngoại tôi kể, trong đêm trăng sáng ấy, cô thôn nữ xinh đẹp tuổi mới đôi mươi hái dâu ở bãi bồi bên sông không chỉ chinh phục Thế tử Nguyễn Phúc Lan bằng lời ca như oán, như than: “Thiếp nghe chúa ngự thuyền rồng/ Thiếp thương phận thiếp má hồng nắng mưa/ Thuyền rồng chúa ngự nơi đâu/ Thiếp thương phận thiếp hái dâu một mình”; mà còn là sự đối đáp tài tình, như một lời tiên tri. Đó là khi Thế tử Nguyễn Phúc Lan lần theo câu hát đến gặp người đẹp đang hái dâu bỏ vào giỏ tre, chàng bèn chỉ chiếc giỏ ra vế đối: “Rỗ chằng, rỗ chịt, rỗ chín mười tầng”. Nào ngờ, bà Đoàn Thị Ngọc không ngần ngại đáp ngay: “An nước, an dân, an năm bảy cõi”. Làm vợ Thế tử Nguyễn Phúc Lan, bà được phong Đoàn Quý Phi. Con trai bà, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần cũng là người tiếp bước chúa Tiên Nguyễn Hoàng mở rộng bờ cõi Đại Việt về phương Nam…

Trong gia phả các dòng họ ở làng Đông Yên xưa ghi rằng, làng có chiều dài từ núi Diêm Sơn đến sông Chợ Củi. Nhưng rồi trận lụt năm Canh Thân -1680, đã khiến sông Chợ Củi dịch chuyển, chia cắt làng Đông Yên thành hai nửa. Đến khi vua Tự Đức có chỉ dụ lập lại làng mới, nửa ở bờ bắc sông được gọi là Đông Yên Đông, sau đổi tên là làng Đông Khương, thuộc tổng An Châu Thượng. Còn nửa ở bờ nam từ chân núi Diêm Sơn chạy ra giáp bờ bắc sông Chợ Củi được sáp nhập vào Duy Xuyên gọi là Đông Yên Tây, về sau đổi thành xã Duy Trinh. Gia đình ngoại tôi sinh cơ lập nghiệp trên đất Đông Khương kể từ đời ông cố. Hỏi đến sông Chợ Củi, ngoại tôi cùng nhiều vị bô lão của  làng  nói mơ hồ rằng, dân gian lưu truyền, bể dâu biến cải, sông xưa đã thành một vệt trũng chạy từ làng Đông Khương về ngang qua trước di tích danh trấn Thanh Chiêm xuống đến Gò Đinh, kéo dài hơn một cây số. Mùa mưa lụt, nước ngập sâu vệt trũng, chảy xiết. Mùa hạ khô cạn, những đoạn nước đọng thành  ao,  người  dân canh tác trồng rau muống.

Còn nhánh sông gầy như cánh tay người con gái mà ngày xưa ngoại tôi thường thả ghe nan chống ngược lên bãi thượng là sông Cầu Mống. Gọi vậy do bởi trên nhánh sông cắt ngang đường thiên lý Bắc - Nam, thời Pháp thuộc người ta xây dựng cây cầu cong như cái mống. Về sau, người Mỹ không sử dụng cầu Mống mà xây dựng cây cầu bê tông vĩnh cửu dài gần một cây số, bắc ngang qua sông con và sông cái, gọi là cầu Câu Lâu. Cũng vì thế, dòng nước Thu Bồn rời đỉnh núi Ngọc Linh chảy về qua đoạn này, có không ít người gọi là sông Câu Lâu. Nhưng cho dù lịch sử thăng trầm, vẫn còn đó món đặc sản bê thui cũng nổi danh cả nước chẳng kém cạnh món đặc sản mỳ Quảng Phú Chiêm. Lạ đến khó tin, người “phát minh” món đặc sản “Bê thui Cầu Mống” là anh hề hát bội - ông Nguyễn Đợi. Nhà ông Đợi ở ngay chân cầu Mống, cạnh cồn ông Thu, gắn liền với giai thoại bi tráng về một võ sĩ hành hiệp trượng nghĩa, chống lại ác bá, cường quyền…

Tôi đang đắm chìm trong hồi tưởng thì bỗng dưng có tiếng chim “bắt cô trói cột” trên ngọn tre ở bờ lạch nước vọng lại. Tiếng chim khắc khoải từng hồi. Nó cứ lặp đi, lặp lại khiến tôi bừng tỉnh. Hình như tiếng chim kia đang bắt chước câu nói của anh Hai Thời nói với tôi lúc ở quán mỳ: “Mần răng mất được!”, “Mần răng mất được!”. Và, bất chợt tôi cũng lẩm nhẩm nói theo như với chính mình: “Mần răng mất được!”, “Mần răng mất được!”... Vâng! Sáp nhập Quảng Nam để mở rộng thành phố Đà Nẵng với mục đích phát triển. Mất đi đâu được cái tính cách Quảng, con người Quảng cương trực, khẳng khái, đầy khí phách, bản lĩnh. Cồn ông Thu như một nhân chứng sống động về một khí phách Quảng không chịu khuất phục bởi ác bá, cường quyền. Chuyện xảy ra từ thời thực dân phong kiến. Rằng, chàng thanh niên Tám Thu lực lưỡng, tráng kiện lại giỏi võ hơn người. Hành tung thoắt ẩn, thoắt hiện “lấy của người giàu chia cho dân nghèo” của ông đã khiến bọn quan lại, địa chủ trong vùng mất ăn, mất ngủ. Để bắt chàng, bọn chúng giở trò hèn hạ, bắt giam mẹ già của chàng. Để giữ tròn chữ hiếu, ông đành phải bó tay chịu trói. Ngoại tôi bảo, khi ông Tám Thu bị bắt đưa ra xử trảm, đúng giờ ngọ ba hồi chiêng trống vang lên, đao phủ vung dao chém xuống nhưng do tóc ông dày che kín gáy nên đầu chẳng lìa cổ. Ông lớn tiếng chửi mắng khiến quan phủ phải cho lính đè ngửa ông ra mà hành hình. Bãi đất pháp trường nằm giữa dòng Thu Bồn trở thành cồn ông Thu từ dạo ấy...

*    * 

*  

Trở lại bãi lẻ cô thôn lần này tôi không còn đi đò ông Được nữa. Sông quê nay đã có cầu, ông Được cũng đã nghỉ ngơi tuổi già. Tôi lái xe lăn bánh chầm chậm qua cầu Phú Triêm. Hơn 5 năm trước, cây cầu bê tông vĩnh cửu này được xây dựng nối liền giữa Triêm Nam và Triêm Trung trong niềm hân hoan vô hạn của người dân ốc đảo. Gió từ biển Cửa Đại thổi về lồng lộng. Những ngọn gió mát lành đến thân quen, nhưng tiếng gọi “Đò ơi!” thì đã thôi khắc khoải trên sông. Không còn cách trở đò giang, thôn bãi lẻ cũng đã dần thay đổi diện mạo mới. Về thôn xưa, không còn bước đi trên những con đường đất quanh co  rợp  bóng tre xanh, lồi lõm những ổ gà, những dấu chân trâu bò đã hằn in trong ký ức tuổi thơ tôi. Thay vào đó là những con đường bê tông, chạy ngang, chạy dọc như ô bàn cờ. Hai bên đường cũng thưa dần đi những ngôi nhà ba gian xưa cũ, thay thế là những ngôi nhà cao tầng xây dựng kiểu dáng hiện đại. Và, cứ đi một đoạn ngắn, tôi lại bắt gặp những chiếc ô tô đời mới bóng loáng đậu đỗ trước nhà. Đường làng thiếu vắng bóng cây xanh. Ô tô đời mới lướt đi êm êm trên mặt đường bê tông phẳng lì. Và, hình bóng của nội tôi với cây chổi tàu cau quét lá trước ngõ nhà cũng chỉ còn trong tiềm thức…

Từ dạo ra phố mưu sinh, phiêu dạt chốn phồn hoa đô thị, thi thoảng tôi mới tranh thủ về thăm bãi lẻ cô thôn, nơi chôn nhau cắt rốn. Dâng nén trầm hương khấn nguyện tổ tiên tha thứ cho đứa cháu phải chịu cảnh “hai quê”, tha phương cầu thực. Khói hương trầm như quyện vào ký ức xa xăm. Trong di ảnh, nội tôi như đang cười với tôi. Nụ cười hiền từ, dỗ dành, an ủi. Tôi nhớ lại ngày thơ bé. Nội tôi thường đưa võng ru tôi ngủ trong căn nhà tranh vách lá. Những câu hát ru của bà cất lên bằng chất giọng trầm buồn: “À ơi!...”. Và sau đó là câu ca quen thuộc: “Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng/ Thương cha, nhớ mẹ quá chừng bậu ơi!/ Thương cha, nhớ mẹ thì về/ Nhược bằng thương kiểng nhớ quê thì đừng”. Bà nội tôi họ Lê, người làng Đông Khương. Bà là con gái thứ tư của cụ Xã Qua, một hào phú trong vùng. Nhưng, cụ rất ghét Tây (thực dân Pháp). Cũng vì thế mà bị đàn áp, khiến cho nhà tan cửa nát, con cháu ly tán. Cái tính khẳng khái của người Quảng trong cụ Xã Qua dường như khá giống cụ Nguyễn Hiển Dĩnh, ông tổ nghề hát bội ở làng An Quán, phía sau nhà. Nội tôi kể, khi lớn lên bà đã nghe dân làng truyền tai chuyện cụ Nguyễn Hiển Dĩnh. Năm mười tám tuổi, cụ Nguyễn thi đỗ tú tài được bổ làm tri phủ Điện Bàn. Nhưng cụ không mê chốn quan trường bằng mê hát bội. Mê hát đến độ tự trào: “Tiến vi quan, thoái vi bầu gánh”. Mà đâu chỉ nói cho vui, sau những ngày tháng lăn lộn chốn quan trường đầy mưu mô, hiểm ác, năm 54 tuổi, cụ Nguyễn xin về hưu để dốc sức vào sáng tác tuồng, đào tạo diễn viên, rồi dựng một rạp hát giữa làng. Cụ đích thân cầm chầu, đào kép nào diễn giỏi được thưởng chầu khen ngợi, còn diễn dở cụ phạt đánh gậy chạy trối chết…

Thời của nội tôi, chiến tranh loạn lạc, lại thêm đói nghèo đeo bám. Về làm dâu thôn bãi lẻ, thương cha nhớ mẹ cũng khó bề quay lại nhà thăm viếng. Cả đời nội tôi “thân cò lặn lội” quần quật làm lụng, bắt ốc, hái rau để nuôi đàn con thơ dại khôn lớn, trưởng thành. Thuở ấy, người làng tôi thường thầm thì với nhau, rằng bãi lẻ cô thôn chỉ là con cá nhỏ bơi theo mẹ và kiệt sức nằm lại mà hóa nên xóm, nên làng. Cũng do đó, đất bãi lẻ không phải “địa linh sinh nhân kiệt”; cũng chẳng có được ai giàu có, phú hào. Số gia đình “tầm tầm bậc trung” dường như chỉ đếm đầu ngón tay, còn lại thuộc thành phần bần cố nông làm thuê, cuốc mướn; hoặc kiếm sống bằng đôi quang gánh chạy chợ nặng trì oằn vai. Câu chuyện kể về con cá nhỏ được người làng truyền miệng khá huyễn hoặc. Rằng xưa, xưa lắm, có mẹ con cá kình bơi từ biển Đông ngược dòng Thu Bồn lên nguồn để hóa rồng. Nhưng bơi một chặng đường dài ngược nước thì cá mẹ đuối sức nằm lại và hóa thành Gò Nổi. Những ngôi làng là đầu cá, bụng cá như Bảo An, Xuân Đài, Bến Đền, Phi Phú, Đông Bàn… trở nên trù phú, thành đất thiêng, sản sinh bao bậc anh tài kiệt xuất, như: Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ, Trần Cao Vân, Phan Khôi, Phan Thanh… Xứ Quảng Nam được xem là đất học “Ngũ phụng tề phi” thì có đến “2 con chim phụng” người Gò Nổi là cụ Phạm Tuấn ở Xuân Đài và cụ Phạm Liệu ở Trừng Giang. Còn con cá nhỏ theo mẹ đuối sức hóa thành làng tôi, ốc đảo nằm giữa sông, chỉ cách Gò Nổi về phía hạ du chừng 5 cây số. Ở thôn bãi lẻ, người học giỏi chữ Nho, rành rẽ Quốc ngữ, am tường lý số như ông cố tôi cũng chỉ mở trường dạy học và được tôn vinh là thầy Hương Quyến.

Tôi đến thăm chị Nương, một phụ nữ tuổi ngoài 70 của làng còn giữ nghề tráng mỳ truyền thống. Vẫn bếp lò xây bằng đất sét, vẫn đun lửa bằng củi, cùng với chiếc nồi đồng có quai to tướng, miệng nồi bịt vải trắng để đổ bột tráng mỳ bằng tay. Bên bếp lửa cháy đỏ hừng hực, nồi đồng đựng nước sôi bốc hơi nghi ngút. Chị Nương luôn tay đưa chiếc gáo dừa múc bột gạo đã xay nhuyễn đổ lên miếng vải trên miệng nồi và vẽ vòng tròn đồng tâm tạo hình lá mỳ, rồi đậy nắp nồi chờ mỳ chín. Khi nắp nồi mở ra, mùi mỳ chín tỏa thơm phức, chị dùng cây đũa tre khéo léo vớt bánh lên mẹt. Chị Nương đón tôi bằng nụ cười vui vẻ. Và bất ngờ hơn, chị cũng hỏi tôi: “Bữa nay về thăm nhà hả em?”.

Tôi không còn ngạc nhiên như ở quán mỳ chị Hai Thời mà khẽ “dạ”. Trong câu chuyện hàn huyên, chị Nương dò hỏi: “Nghe nói sáp nhập đất đai sẽ lên giá phải không em?”. Rồi chị phàn nàn rằng, có một dạo sốt đất, các đại gia ở Hội An tìm lên làng tôi mua đất. Những mảnh đất bỏ hoang hóa, cỏ mọc um tùm ở thôn bãi lẻ bỗng chốc bán nhanh, thu bạc tỷ. Nhiều người trong làng “trúng đất” phá bỏ nhà ba gian xưa để xây nhà cao tầng hiện đại, mua sắm xe hơi đi lại. Bãi lẻ cô thôn dần thiếu vắng tiếng gà gáy gọi sáng. Thiếu vắng cả tiếng đàn heo kêu đòi ăn trong chuồng; tiếng rống của trâu, bò đói cỏ. Không còn khói lam quyện trên những mái nhà tranh mỗi độ hoàng hôn buông xuống. Không còn tiếng “hò rì, hò tắc” của các nông phu cày ruộng trên cánh đồng màu mỡ phù sa cuối làng. Tới kỳ nông vụ giòn giã tiếng máy cày, máy gặt. Trên con đường làng đã bê tông hóa vĩnh viễn mất đi hình ảnh những phụ nữ oằn vai gánh mỳ, gánh chè ngọt, đậu hũ, xoa xoa mỗi buổi sáng đi thành từng đoàn tỏa về các chợ. Gánh mỳ Phú Chiêm đến với đô thị Đà Nẵng, phố cổ Hội An bằng những chiếc xe máy đời mới. Thậm chí có nhà chị em chung tiền mua ô tô để đi bán mỳ… Tôi trầm ngâm nhìn chị Nương hồi lâu rồi nhẹ nhàng buông giọng như gió thoảng: “Cuộc sống phát triển thì đành phải vậy thôi chị! Nếu cứ khư khư ôm giữ cái xưa cũ thì làm gì có được cái mới mẻ, tiến bộ…”. “Thì biết! Nhưng vẫn thấy buồn và tiếc nuối em hỉ!”.

Nói rồi chị Nương ngừng tráng mỳ, bước lại bàn chấn (xắt) mỳ mời tôi ở ăn trưa cùng chị. Tôi không thể chối từ. Và khi ngồi nhìn chị Nương thoăn thoắt đôi tay chấn mỳ tôi mới chợt nhận ra, việc tưởng chừng đơn giản này cũng phải hết sức khéo léo, tỉ mẩn. Theo đôi tay chị, con dao phay cứ nhịp nhàng chấn xuống lá mỳ gấp làm ba bỏ dọc trên thớt gỗ, tạo ra âm thanh “lộp cộp” đều đều, song nhanh và dứt khoát. Và chẳng mấy chốc, chị Nương đã chấn xong một rá mỳ, sợi mỳ nào cũng cùng cỡ như nhau, như thể được đúc ra từ một khuôn. Bất chợt tôi liên tưởng đến chữ “Nhẫn” trong tiếng Hán, với chữ “Đao” ở trên, chữ “Tâm” ở dưới. Nếu con dao chấn mỳ thay cho chữ “Đao”, thì lá mỳ nằm dưới lưỡi dao kia ẩn giấu những tinh hoa, cốt cách của chữ “Tâm”. Tâm ở đây là cái tâm thuần khiết, trong sáng của người dân Đại Việt đã nghĩ ra món ăn dân dã, nhưng hàm chứa bao ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Đó là tinh thần kiên trì, nhẫn nại vượt qua bao khó khăn, thử thách trong bước đầu khai hoang, lập ấp, lập làng trên miền đất mới để tạo nên vóc, nên hình xứ Quảng ngày nay…

Tôi rời bãi lẻ cô thôn để về lại chốn thị thành khi hoàng hôn buông xuống. Ráng chiều đỏ rực ở dãy núi đầu nguồn sông mẹ Thu Bồn. Bất ngờ, từ phía rặng tre sau nhà vang lên tiếng chim “bắt cô trói cột” đuổi theo. Tiếng chim kêu như xoáy vào trong tôi từng hồi, từng hồi. Và tự dưng, tôi bật cười. Lòng thấy lâng lâng nhẹ hẫng khi lẩm bẩm nhại theo tiếng chim, như nói với chính mình: “Mần răng mất được! Mần răng mất được!”…

L.V