Nghệ thuật dân ca Bài chòi miền Trung

29.08.2025
Phùng Tấn Đông

Nghệ thuật dân ca Bài chòi miền Trung

Bài chòi - trước hết là một hình thức đánh bài - một sinh hoạt vui  chơi,  giải  trí  đặc  sắc  của nhân  dân  ở  miền Trung  trong  dịp xuân về, Tết đến.

Đặc sắc ở chỗ, tuy là trò “ăn thua”, “bài bạc” nhưng cùng với trò chơi “đỏ/đen” là trò ca/hô/hát/xướng đúng như nhận diện của anh hiệu về sau này: “Bài chòi vừa hát vừa hô/ Vừa nghe thơ phú vừa chờ vận may”. Bài chòi độc đáo ở chỗ, tuy là “bài bạc” nhưng không thiên về tiền bạc, vật chất để người chơi phải “cay cú”, “ăn thua” vì số tiền để mua ba quân bài (cờ ngân - cờ thay cho tiền) ở mỗi chòi, tiền xâu/ăn xâu một cờ ngân (ba quân bài) của ban tổ chức rất vừa phải và giải thưởng không lớn, cốt là để người chơi thử may mắn đầu năm, cũng là để “vui vẻ cả làng” vào dịp “minh niên”/ “tân xuân”… Theo các nhà nghiên cứu Đinh Thị Hựu, Trương Đình Quang thì “Bài chòi là một thuật ngữ hoàn toàn thuần Việt, gồm hai từ ghép lại, bài: con bài/ quân bài/một cách đánh bài; chòi: lều tranh tre nhỏ (dựng cao kiểu nhà sàn).

Thuật ngữ Bài chòi dùng để chỉ một trò chơi dân gian có kèm theo hát dân ca. Bài chòi thuộc dân ca sinh hoạt”(1).

Như vậy, Bài chòi vừa là trò chơi dân gian vừa là diễn xướng dân gian mang tính chất giải trí chứ không thiên về bài bạc.

Về nguồn gốc, Bài chòi là sản phẩm sinh hoạt tinh thần đặc sắc của cư dân vùng đất mở sau năm 1470, trải dài từ Quảng Bình đến Phú Yên chứ chẳng phải khoanh vùng ở khu Thiên-Huế(2). Như vậy khu vực hình thành và phát triển Bài chòi phải kể từ Quảng Bình mở dần vào tận Phú Yên, Khánh Hòa như nhà nghiên cứu âm nhạc học người Pháp G.L.Bouvier nhận định trong những năm đầu thế kỷ XX: “Bài chòi được hình thành và phát triển sau những năm Nam tiến, tức sau năm 1470”(3) chứ không chỉ khu trú trong mỗi khu vực Bình Định, Phú Yên như một số công trình nghiên cứu văn hóa địa phương đã nhận định(4). Quân bài và mỹ thuật trên các quân bài là một hiện tượng tiếp biến văn hóa giữa loại bài giấy tiền thẻ của người Hoa, sự giao lưu văn hóa của cư dân người Việt, người Chăm ở vùng đất mới. Ở vùng Bình Định, Phú Yên còn có chuyện tương truyền rằng, Bài chòi là trò chơi do ông Đào Duy Từ (1571-1634) sáng lập ra. Năm 2017, Tổ chức UNESCO đã ghi danh nghệ thuật Bài chòi 9 tỉnh miền Trung là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Về nguồn gốc dân ca Bài chòi

Riêng về nguồn gốc hình thành dân ca Bài chòi là một vấn đề gây tranh luận cho rất nhiều nhà nghiên cứu từ những năm 60 thế kỷ XX đến nay. Tựu trung có hai luồng nhận định. Một mặt cho rằng Bài chòi là một lối hát bắt nguồn từ  trò  chơi Bài chòi như quan điểm của các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, Đặng Văn Lung… Đặng Văn Lung cho rằng: “Hô Bài chòi là một lối hát bắt nguồn từ lối chơi Bài chòi, song khi nó phát triển lên thì cũng trở thành một loại dân ca độc đáo của Liên khu V”(1). Mặt khác, nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng dân ca là nghệ thuật cổ truyền có trước, sau đó mới nhập vào trò chơi Bài chòi như các nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường, Huỳnh Lý, Trương Đình Quang, Trần Hồng, Nguyễn An Pha... Tạ Chí Đại Trường cho rằng: “Hát hò có đời sống riêng của nó trước khi nhập vào trò chơi thành một hình thức rồi khi tách ra lại đem hình thức ấy cải biên theo điều kiện mới… Hô Bài chòi hiểu theo hiện tượng này rõ là xưa hơn đánh Bài chòi”(2). Cùng quan niệm, năm 1973, Huỳnh Lý cho rằng: “Về những câu hô Bài chòi dài, đầy tính văn nghệ dân gian ấy là những thú vui ghép vào cuộc bài”(3). Năm 1977, nhạc sĩ Trương Đình Quang viết: “Điệu hò Bài chòi không phải là con đẻ của trò chơi Bài chòi mà là một dân ca đã có từ trước được kết hợp với trò chơi ấy… Còn việc dùng chất liệu, giai điệu hô bài để hò những câu thai (câu đố) về tên các con bài trùng thì cũng giống như các điệu ngâm thơ để thả thơ hoặc lối nói về bốn từ, năm từ (ba biến thể) trong trò đánh lô tô của đánh bạc có kết hợp câu đố. Đó là cách dùng nghệ thuật ca hát để tăng phần hấp dẫn của trò chơi và đám cờ bạc mà thôi”(4). Cũng theo nhận định trên, năm 2012, Trương Đình Quang lý giải tường minh hơn: “Bài chòi là một trò chơi dân gian trong đó có lồng vào những làn điệu dân ca (xuân nữ, cổ bản). Những làn điệu dân ca này có quá trình phát triển tự thân lâu dài và độc lập về mặt phát triển nghệ thuật với hình thức đánh bài đó... Bài chòi là trò chơi đã có từ lâu nhưng việc bày ra điệu hô Bài chòi ghép vào cuộc chơi thì mới có khoảng thời gian sau này”(1). Về sự phát triển của nghệ thuật hô/ hát Bài chòi, nhà văn Sơn Nam cho rằng “Bài chòi là nguồn gốc của cách nói thơ Vân Tiên ở Nam Bộ trước đây”(2).

Nghệ thuật dân ca Bài chòi - quá trình tiếp ứng, hình thành, phát triển

Qua các công trình nghiên cứu kể trên, có thể nói Bài chòi hình thành trò chơi dân gian trước hết là để thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giải trí của người bình dân ở vùng “đất mới” từ Bắc Trung Bộ trải dài đến Nam Trung Bộ Việt Nam bằng trò chơi đánh bài (từ Quảng Bình đến Quảng Nam, Quảng Ngãi người dân sử dụng bộ Bài Tới, từ Bình Định trở vô người dân sử dụng bộ bài giống hình Bài Tam Cúc nhưng tên gọi tương tự Bài Tới). Trong quá trình hình thành, ban đầu nghệ thuật Bài chòi thiên về việc “hô bài” như nhận định của nhạc sĩ Phan Ngạn: “Hô bài không phải là hô tên con bài như được hiểu lầm sau này, mà là hô một bài vè. Giọng điệu hô (hô là thể gốc trong ca nhạc phù thủy) và giọng hô bài nguyên sơ mang sắc thái tấu nhiều hơn ca hát. Cũng xin nói thêm rằng trong diễn xướng dân gian các thể hò, hố, hô được áp dụng cho những điệu diễn xướng tự do, chưa có kết cấu nên, nếu ta muốn tìm một từ hiện đại để thay thế cho từ “hô” cũ, thì từ ấy có thể hiểu là “tấu thơ” và với những kiểu như vậy, bây giờ ở Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Thuận Hải (Bình Thuận, Ninh Thuận) gọi là “hô bài”, ở Quảng Nam, Huế gọi là “hô thai”(3). Thuở ban đầu, nhà nghiên cứu Nguyễn An Pha cũng nhận định nhưng có khác với ý trên: “Thời kỳ đầu của hội đánh Bài chòi, anh chị hiệu chỉ hô đơn giản là đọc tên con bài cho người chơi nghe để theo dõi chòi mình có trúng  con bài nào không?... Dần dần người chơi nhàm chán, các anh chị hiệu mới sáng tạo ra kiểu hô Bài chòi có điệu, đầu tiên là điệu Bài chòi nhịp một dựa theo lối nói vè dân gian bốn chữ”(4).

Ở Quảng Nam (và cả Huế hiện nay), ban đầu anh hiệu chỉ hô một câu ngắn, thường là một hoặc hai câu lục bát tương tự lời hô thai (Thai đề xổ cổ nhơn) - chính là thể “tấu vè cổ truyền” dẫn về “tên” hay đặc tính quân bài. Như ở Quảng Nam, Đà Nẵng, anh hiệu hô: “Say mê cái thứ bài chòi/ Để cho con nó khóc lòi rún ra” (Ngũ rún); “Một mình vừa chống vừa chèo/ Không ai tát nước đỡ nghèo một phen” (Nhì nghèo). Ở Huế, anh hiệu hô: “Đi mô bỏ cửa bỏ nhà/ Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai dâng?” (Chín gối).

Tiến trình phát triển của lời ca Bài chòi trải qua nhiều giai đoạn, từ “câu hô đơn giản theo lối hô thai (câu đố) đến “Bài chòi câu” phát triển dài hơn, có tình tiết trọn vẹn ý nghĩa”(1): “Một anh để em ra/ Hai anh để em ra/ Em về em đi buôn đi bán/ Em trả nợ bánh tráng/ Em trả nợ bánh xèo/ Còn dư em trả nợ thịt heo/ Anh đừng lầm em nữa mà mang nghèo vì em” (Nhì nghèo).

Trong quá trình phát triển, hô Bài chòi “từ điệu Bài chòi nhịp một, tiến đến hô Bài chòi nhịp hai, nhịp ba (điệu hát ru), nhịp ngắt… sử dụng  những câu thai trong hội đánh Bài chòi dân gian, dần về sau, các thế hệ nghệ nhân đã sáng tạo ra bốn làn điệu Bài chòi: xuân nữ, cổ bản, hò Quảng, xàng xê. Từ bốn làn điệu cơ bản này mà loại hình nghệ thuật sân khấu Bài chòi “chiếu” ra đời và tiếp theo là sân khấu Bài chòi từ “đất” lên “giàn”/ kịch hát Bài chòi”(2).

Như vậy, “từ việc chỉ một người hô những câu ngắn gọn, tiến tới nhiều người hô theo lớp lang, tuồng tích có đối thoại, Bài chòi đã tiến xa trên con đường nghệ thuật biểu diễn. Ở giai đoạn này, Bài chòi từ một thể loại dân ca đã chuyển dần sang loại hình sân khấu dân gian… là tiền đề cho sân khấu ca kịch Bài chòi mang tính hiện đại sau này”(3). Trong quá trình phát triển, câu hô bài từ tên quân bài đến câu vè bốn chữ, năm chữ...; từ câu văn vần lục bát, đến lục bát biến thể, song thất lục bát, câu thơ tự do... Bài chòi từ câu kể chuyện theo nguyên mẫu văn vần đến câu có âm giai, nhịp điệu… Phần nhạc đệm là bộ sanh/ sinh đến trống cơm, trống chiến, đàn cò (nhị), đàn hồ, kèn bầu, sáo trúc, ghi-ta phím lõm… Từ “hô” đến “ca” và thành “sân khấu kịch hát dân ca”; từ trò chơi dân gian đã kết hợp với quá trình “âm nhạc hóa” lời hô, Bài chòi trở thành một loại hình dân ca độc đáo mang bản sắc văn hóa bản địa của người miền Trung - trong đó có người xứ Quảng.

Về nội dung hô diễn, các anh chị hiệu thường sử dụng lời ăn, tiếng nói đậm chất phương ngữ, ngôn ngữ của người quê xứ chân chất, thực thà. Ở xứ Quảng, những từ nhân xưng cổ như “qua, bậu, em bậu…” rồi những từ địa phương như “răng, rứa,  mô, tê, ni, nớ, hề, nà, nờ…” luôn được thể hiện. Anh chị hiệu thường vận dụng nguồn ngữ liệu văn học dân  gian địa phương (tục ngữ, thành ngữ, ca dao…), đặc biệt là các làn điệu dân ca (hò khoan Quảng Nam, các loại hò tát nước, hò giã gạo, hò chèo thuyền, hò giã vôi, hò ba lý, hò hụi, hò bện dây dừa, hò kéo lưới…); các điệu lý (lý con sáo, lý du xuân, lý thượng, lý lạch, lý thiên thai, lý ngựa ô Quảng, lý tang tít, lý thương nhau…); các điệu vè (vè Quảng, vè chim chóc, về đố cá, vè nói ngược…) làm giàu khả năng ứng tác tại chỗ (kiến tại), làm tăng thêm tính hấp dẫn của nghệ thuật hô diễn Bài chòi. Trong quá trình phát triển việc hô, hô hát Bài chòi luôn kết hợp với “ca diễn”, từ hô đơn đến hô đôi, hô nhiều người/nhiều vai, có lớp lang, có kịch bản (scenario) như nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng từng viết: “về khả năng ca kịch có lẽ Bài chòi là một trong những bộ môn dân ca đặc sắc nhất của miền Nam (Đàng Trong nói chung) mà các loại dân ca nhiều nơi khó sánh kịp về phương diện trình diễn cũng như khả năng phong phú về tiết điệu, về chất nhạc, thể hiện được cái vui tươi lành mạnh của nó. Đây là không khí của một rạp hát ở nông thôn trong ngày lễ lớn cổ truyền của dân tộc”(1). Như vậy, từ những câu hô hát dựa trên câu thai (hát đố về con người, loài vật, sinh hoạt của con người, loài vật, thiên nhiên…), các nghệ sĩ dân gian lại phỏng theo các truyện thơ dân gian như Lưu Bình - Dương Lễ, Phạm Công - Cúc Hoa, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Lâm Sanh - Xuân Nương, tuồng tích hát bội…để “Bài chòi lớp” (Bài chòi có lớp lang, có đối thoại theo cốt truyện…) ra đời. Bài chòi trở thành bộ môn ca kịch Bài chòi từ cuối những năm 30 thế kỷ XX. Trong giai đoạn 1954-1975, nhiều vở diễn được công chúng yêu thích như “Thoại Khanh - Châu Tuấn” (1957), “Tiếng sấm Tây Nguyên” (1962), “Đội kịch Chim chèo bẻo” (1968), “Biển động” (1968)… Cùng với các tác giả kịch bản như Nguyễn Tường  Nhẫn (Thoại Khanh - Châu Tuấn), Thanh Nha - Thế Lữ (Tiếng sấm Tây Nguyên), Nguyễn  Văn  Niêm  (Đội  kịch  chim chèo bẻo)… là các nhạc sĩ sáng tác làn điệu Bài chòi mới cho sân khấu ca kịch như Hoàng Lê (làn điệu Đất Hồ lòng Hán; Áo tân khoa; Lía mo xảo; Ghẹo vàng anh; Lía phấu; Vọng Kim lang…), Cung Nghinh (làn điệu Đoạn trường; Vượt tường hoa; Trách hoa; Dạ đơn hành…), Văn Cận (làn điệu Tình duyên cung oán...) làm giàu thêm cho dân ca Bài chòi Nam Trung Bộ.

Theo Ủy ban Liên chính phủ về bảo vệ di sản phi vật thể, hồ sơ đề cử di sản phi vật thể nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ Việt Nam đáp ứng những tiêu chí để đăng ký vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại bởi “Nghệ thuật Bài chòi là một hoạt động văn hóa quan trọng trong cộng đồng - đúng hơn là những nội dung câu thai (câu hô hát) là những bài học đạo đức, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, sự gắn kết cộng đồng và những kinh nghiệm trong cuộc sống của người dân”. Nếu “trò chơi Bài chòi vốn mang tính trò chơi - văn bản hô hát đánh thức khả năng tiên đoán, trì hoãn lời giải của người hô/hát với người chơi tạo nên “ức chế chờ đợi”, “khoái cảm chờ đợi” ở người chơi, mời gọi sự “đồng suy đoán (đồng sáng tạo) ở người chơi thì việc hô hát dân ca của anh hiệu cũng đầy tính ngẫu hứng bởi mỗi lúc là mỗi văn bản khác nhau để “tương tác” với người chơi/ nghe”(2). Về phía khác, cùng với việc diễn xướng, dân ca Bài chòi luôn mang tính hội hè vì diễn xướng Bài chòi luôn thoáng mở về nội dung hô hát và cách thức hô hát (nhiều làn điệu hô hát khác nhau bởi mỗi lần chơi là mỗi cách hô hát mang tính ngẫu hứng của anh/ chị hiệu về mỗi quân bài.

Dân ca Bài chòi luôn ca ngợi chân - thiện - mỹ, phê phán cái ác, cái lạc hậu, nội dung hát luôn “đi tìm sự thật biết cười” như U.Berto Eco nói về “tác phẩm mở” và đồng thời với văn bản văn học - “biến cuộc đỏ đen thành một thú chơi văn chương tao nhã” (Trần Thùy Mai), nghệ thuật hô hát Bài chòi cũng để mở khả năng dung nạp các làn điệu âm nhạc có chất liệu dân gian (hò, lý ba miền...) kể cả ca khúc mới có chất liệu dân gian, nhất là các ca khúc của sân khấu ca kịch Bài chòi.

 P.T.Đ

 Chú thích:

(1) Đinh Thị Hựu, Trương Đình Quang, Bài chòi xứ Quảng, Hội Văn nghệ Dân gian, NXB Lao Động, Hà Nội, 2012, tr.11.

(2) Nguyễn Tú, “Hội Bài chòi ở Quảng Bình”, Tạp chí Nguồn sáng dân gian số 1/2006.

(3) Trần Thùy Mai, Dân ca Thừa Thiên-Huế, NXB Thuận Hóa 2003.

(4) Dẫn theo Đoàn Việt Hùng, Bài chòi và tiến trình phát triển, NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 2014.

(5) Đặng Văn Lung, “Các hình thức sinh hoạt dân ca”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 5/1973.

(6) Tạ Chí Đại Trường, “Nguồn gốc và tương quan giữa Bài chòi với hát bội, cải lương”, Tạp chí Tân Văn Sài Gòn số 4 tháng 8/1968.

(7) Huỳnh Lý, “Một trò chơi dân gian miền Nam: Bài chòi ngày Tết”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 26 tháng 2/1973.

(8) Trương Đình Quang, “Để làm sáng tỏ thêm về lý, Bài chòi và ca nhạc tài tử”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật số 2/1977.

(9) Trương Đình Quang, tài liệu đã dẫn.

(10) Sơn Nam, Đất Gia Định xưa, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1985.

(11) Phan Ngạn, Sân khấu Bài chòi, hô hay ca? - Ca kịch Bài chòi-những vấn đề nghệ thuật, Viện Sân khấu, 1993 tr.26.

(12) Nguyễn An Pha, Nghệ thuật Bài chòi dân gian Bình Định, NXB Văn hóa Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2019, tr.34-39.