Những vạt nắng lấp lánh
Nguyễn Thiên Phước hiện đang học lớp 10/5 Trường THPT Phan Châu Trinh, thành phố Đà Nẵng. Từ nhỏ, em đã say mê đọc sách, xem sách như người bạn thân thiết mở ra thế giới tri thức và nuôi dưỡng tình yêu sâu sắc với văn chương.
Trong hai năm liên tiếp (2024 và 2025), em được chọn tham gia Trại sáng tác Văn học thiếu nhi hè do Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật và Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Đà Nẵng phối hợp tổ chức. Từ những mùa trại ấy, Thiên Phước đã sáng tác nhiều truyện ngắn, tản văn, thơ, với những góc nhìn tinh tế và nhân văn; đặc biệt là những câu chuyện thấm đẫm tình cảm gia đình, tình bạn và lòng nhân ái.
Mang trong mình khát vọng cất lên tiếng nói của thế hệ trẻ, Thiên Phước mong muốn lan tỏa những suy nghĩ, trăn trở và ước mơ của thanh thiếu niên hôm nay, góp phần xây dựng một xã hội văn minh, giàu yêu thương.
Tạp chí Đất Quảng trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Những vạt nắng lấp lánh” của tác giả trẻ Nguyễn Thiên Phước đến bạn đọc.
Những vạt nắng lấp lánh
Tôi tỉnh dậy giữa mùi thuốc sát trùng nồng gắt và ánh đèn trắng nhức nhối. Mọi thứ xung quanh mờ đục như phủ một lớp sương mỏng. Đầu tôi nhói lên từng cơn như có ai đang gõ búa vào tận sâu mạch máu. Khẽ cựa mình, tôi thấy toàn thân ê ẩm như vừa bị cuốn qua một cơn bão. Miệng khô khốc, ngực nặng như có tảng đá đè lên.
Một giọng nói quen thuộc vang lên bên tai, run run đầy hốt hoảng: “Mai... con tỉnh rồi hả? Trời ơi, thím tưởng con không qua nổi... Con đang bưng đồ ăn cho khách thì lăn ra bất tỉnh. Thím sợ quá, đưa con vô viện liền”. Là thím Hòa - chủ quán cơm nơi tôi làm thêm. Thím ngồi bên giường bệnh, đôi mắt đỏ hoe, tay vẫn cầm chặt cái túi vải cũ nhàu nhĩ.
Tôi im lặng, quay mặt ra cửa sổ bệnh viện, nơi ánh nắng trưa xiên qua khung rèm. Một cảm giác mơ hồ len vào, rằng mình sắp phải đối mặt với điều gì đó lớn hơn rất nhiều so với những ca làm đêm hay những kỳ thi căng thẳng.
Năm nay tôi hai mươi mốt tuổi, sinh viên năm ba ngành Sư phạm Văn. Tôi không xinh đẹp, không giỏi giang, cũng chẳng có đam mê rực rỡ. Tôi chỉ sống - cố gắng không là gánh nặng của ai. Sáng đi học, chiều làm thêm, tối về học bài, dọn phòng trọ. Mỗi tháng, tôi gửi tiền về nhà phụ lo cho em trai đang học lớp 11 ở quê - niềm hy vọng của cả gia đình, “trụ cột tương lai”, là đứa con trai mà bà nội tôi luôn nhấn mạnh: “Con trai là gốc rễ dòng họ”. Còn tôi... chỉ là đứa con gái lớn, sinh ra để biết điều, để hy sinh, để cam chịu.
Tôi không biết mình đã nằm viện bao lâu. Chỉ nhớ cơn mệt mỏi cứ chồng lên như lớp sương mù dày đặc, khiến thời gian trôi mờ mịt. Bác sĩ vào thăm khám, thím Hòa nghe rồi khóc rấm rứt. Tôi lặng lẽ nằm im, không dám hỏi. Đến chiều, thím ngồi xuống mép giường, ngập ngừng nói: “Mai à... Bác sĩ nói trong não con có một khối u... Nhưng… con phải làm thêm xét nghiệm...”.
Từng lời thím nói ra như xé toạc cả căn phòng nơi tôi đang nằm, kéo tôi khỏi những miên man mệt mỏi trở về với một thực tại nghiệt ngã đến không thể tin nổi. Cổ họng tôi nghẹn lại. Tim tôi như bị ai đó đang bóp nghẹt. Từng từ va vào nhau, méo mó, vỡ vụn trong đầu. Khối u? Không, chắc là có nhầm lẫn gì rồi. Tôi mới hai mươi mốt. Tôi vẫn đi học, đi làm, vẫn sống bình thường mà!
Thím Hòa siết chặt tay tôi. Đôi bàn tay gầy guộc, chai sạn vì bếp núc, giờ lại run lên từng nhịp nhưng cố giữ tôi khỏi vỡ tan: “Bình tĩnh nghe con. Cứ nghỉ đi đã. Chờ thêm xét nghiệm rồi tính tiếp. Có gì thím cũng ở đây với con…”.
Tôi thả mình vào hư không và rồi thốt lên một tiếng “Dạ…” đầy buông xuôi. Tôi gật nhẹ, đôi mắt dán vào khoảng trống trên trần nhà. Những vệt sáng vàng hắt qua khe rèm bỗng dưng trở nên xa lạ, lạnh lẽo.
Tối đó, thím Hòa ngủ gục trên chiếc ghế xếp bên giường, dáng người lom khom, vẫn còn khoác nguyên áo khoác dính vệt nước mắm ở tay áo. Thím đã chạy vạy cả ngày cùng tôi từ phòng siêu âm đến khoa nội thần kinh rồi đích thân xin bác sĩ kiểm tra lại lần nữa. Thím còn giấu nhẹm tờ giấy chẩn đoán như thể việc đó có thể ngăn sự thật khỏi hiện hình.
Tôi đã lén cầm điện thoại của thím, mở hồ sơ bệnh án qua cổng tra cứu của bệnh viện. Dòng chữ đỏ chói hiện lên: “Khối u ác tính. Nghi ngờ glioblastoma giai đoạn muộn”. Tim tôi như khựng lại một nhịp. Ngực nặng trĩu. Tôi nôn khan bên thành giường. Không phải vì thuốc, không vì thức ăn mà vì có thứ gì đó… vừa vỡ tan trong lòng.
Tôi từng quen chịu đựng. Từng nuốt nước mắt khi bị bà nội mắng là “vô dụng”, từng gồng gánh những đêm sốt cao vẫn phải đi rửa bát thuê. Tôi từng sống như cái bóng, không tiếng nói, không ước mơ. Nhưng lần này… là cái chết. Nó không kêu gào, không giương nanh múa vuốt. Nó đến nhẹ tênh, lạnh lẽo như một cánh cửa âm thầm đóng lại, chặn hết lối ra.
Thím Hòa tỉnh giấc. Thấy tôi ôm điện thoại với gương mặt trắng bệch, thím không nói gì, chỉ lặng lẽ nhìn tôi ánh mắt chất chứa bao nỗi lo lắng. Thím chỉ ngồi xuống, khẽ kéo tôi vào lòng, vỗ lưng nhè nhẹ như dỗ một đứa trẻ. Tôi khóc đến nấc lên - như thể lần đầu tiên trong đời được làm một đứa trẻ bé bỏng, được quyền yếu đuối, được quyền òa khóc trong vòng tay mẹ. Bao nỗi tủi hờn, bao tháng ngày gồng mình cam chịu, giờ cùng nhau tràn ra, nghẹn ngào và nhức nhối. Và cái ôm ấy… cái ôm đơn sơ trên chiếc giường bệnh, là nơi đầu tiên tôi cho phép mình được khóc mà không sợ bất cứ ai nhìn thấy…
Hôm sau, tôi chần chừ mãi mới quyết định gọi về cho mẹ. Tôi sợ mẹ biết sẽ lo lắng nhưng thật ra… tôi cũng hèn mọn mong một chút lo lắng từ gia đình. Nấn ná mãi thì điện thoại rung lên, là mẹ gọi! Tôi mừng đến mức tim đập thật mạnh, vội bắt máy. “Mẹ ơi, cả nhà mình vẫn khỏe chứ ạ?”. Ngừng một chút tôi nói tiếp: “Con có chuyện muốn nói…”. Chưa dứt câu, mẹ tôi nói tiếp: “Khỏe gì nổi con ơi. Em mày đánh nhau ở cổng trường, giờ bị công an gọi lên làm việc. Gia đình bên kia kiện ra tòa đòi bồi thường hai chục triệu. Bà nội biểu mày gửi tiền gấp, chứ không em mày phải vô trại đó”.
Tôi nắm chặt điện thoại, giọng nghèn nghẹn: “Con kiếm đâu ra nhiều tiền như thế? Con đang nằm viện. Mẹ nghe con nói…”. Mẹ không biết, mày mượn đỡ bạn bè để lo cho em nó đi. Chẳng lẽ mày không thương em mày à? Lại bệnh hả? Suốt ngày đau với yếu. Chắc cảm vặt đấy, lên viện làm gì cho tốn kém.
Giọng bà nội bất ngờ vang lên từ sau máy: “Tắt máy đi! Mất dạy! Tao nuôi mày lớn rồi mày báo hiếu kiểu đó hả? Kiếm được mấy đồng thì gửi về cho em đi. Con gái học hành gì lắm sau này cũng theo nhà chồng”.
Tút… tút… tút…
Tôi đặt điện thoại xuống bàn, tay run lên. Lòng tôi trống rỗng, không hẳn vì những lời cay nghiệt đó mà có lẽ vì tôi không còn muốn phản ứng nữa. Nếu là trước kia, chắc tôi đã gọi lại để xin lỗi, hứa hẹn rồi lại cố cày thêm vài ca để gửi tiền về. Nhưng giờ thì… lòng tôi nguội lạnh rồi. Cả thể xác lẫn tâm hồn đều bị bào mòn đến mức chẳng còn cảm xúc nữa.
Thím Hòa vừa từ tiệm cơm chạy vội lên để chăm tôi, thấy tôi mặt tái nhợt, mắt đỏ hoe thì chỉ ngồi xuống bên cạnh: “Gia đình con… vẫn vậy hả?”. Tôi gật đầu “Dạ!”, mắt vẫn nhìn trân trân lên trần nhà trắng toát. Thím Hòa là người duy nhất tôi dám tin tưởng, tâm sự ở nơi đất khách quê người. “Mai à” - thím đặt tay lên vai tôi“. Chồng thím mất sớm, thím không có Lúc nào cũng cô đơn, hiu quạnh. Nhưng từ lúc quen con, thấy con siêng năng, lễ phép, thím thương con như con ruột”. Tôi không nói gì, chỉ nắm chặt lấy tay thím như một đứa trẻ đang chới với giữa đại dương đen mịt mùng. Không la hét, không vùng vẫy. Chỉ mong có ai đó giữ mình lại đừng để trôi tuột xuống đáy. Nước mắt tôi lặng lẽ rơi trên đôi gò má lấm tấm tàn nhang.
Sáng hôm sau, tôi nằm yên thật lâu mới ngồi dậy. Trên tủ đầu giường là hộp cháo thím Hòa để lại cùng một mẩu giấy nhỏ: “Nhớ ăn nghe con. Sáng nay thím ra chợ sớm. Có gì gọi cho thím”.
Tôi cầm điện thoại. Lần đầu tiên sau nhiều năm, tôi bấm số bác cả - chị gái của ba. Tôi nhớ, từ bé tôi rất ít khi gặp bác. Không phải vì tôi không muốn mà vì bà nội không cho. Bà bảo bác ngang ngược, bất hiếu, không giữ lễ. Mỗi lần tôi lén gọi hỏi thăm, bà lại mắng té tát. Bác cả cá tính, mạnh mẽ. Từ lâu đã thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình, sống một mình, có nhà riêng, cũng không mấy khi về quê.
Đầu dây bên kia vang lên giọng quen mà xa lạ: “A lô? Ai đấy?”. Tôi nghèn nghẹn, giọng run run: “Dạ… bác cả… con là Mai… con gái của ba Tuấn…”. Một thoáng im lặng. Rồi giọng bác dịu lại: “Mai hả? Trời ơi, lâu lắm rồi không nghe giọng con. Có chuyện gì không con?”. Tôi không kiềm được, bật khóc nức nở. Tôi kể tất cả. Kể về khối u trong đầu, về những cơn đau, về những đêm một mình trơ trọi. Kể về lần gọi điện bị từ chối, bị mắng chửi. Kể cả việc tôi muốn sống… nhưng quá đơn độc.
Bên kia, bác im lặng rất lâu. Rồi thở hắt ra một tiếng thật dài. Bác nói: “Con là đứa con gái duy nhất trong nhà. Bác hiểu nỗi niềm của con. Bác biết, từ nhỏ con đã chịu nhiều thiệt thòi. Cũng như bác ngày xưa… bị bà nội ép làm cái bóng cho em trai con. Nhưng bác không chịu, bác bước ra khỏi vùng cấm ấy. Và giờ con cũng phải bước ra”. Tôi im lặng. Nước mắt rơi ướt cả gối. Bác nói tiếp, giọng chắc nịch: “Từ hôm nay, mọi chi phí điều trị bác lo. Con không cần lo nghĩ gì hết. Cứ tập trung chữa bệnh. Con không còn một mình đâu. Bác ở đây, bên con”. Tôi vỡ òa. Một phần trái tim tưởng chừng đã chết khẽ lay động.
Những tuần tiếp theo dường như là những ngày tăm tối nhất trong đời tôi. Hóa trị, xạ trị,… những cụm từ tôi từng thấy trong phim giờ thành thực tại. Những mũi kim lạnh buốt đâm xuyên qua lớp da mỏng. Những cơn đau bứt rứt tận xương tủy khiến tôi cong người lại như con tôm héo úa. Buồn nôn đến mức không còn gì để nôn. Sốt mê man, mồ hôi ướt đẫm lưng áo. Có hôm tôi nằm bẹp cả ngày, không cựa quậy nổi, miệng đắng ngắt, lòng tê tái đến hóa đá.
Một buổi sáng nọ, tôi đứng trước gương và thật sự sững sờ. Tóc tôi rụng nhiều đến mức chỉ cần chạm tay nhẹ cũng rụng từng búi. Khuôn mặt tôi hốc hác, xám ngoét. Mắt thâm quầng, đôi môi nứt nẻ. Tôi nhìn vào mình… và không còn nhận ra mình là ai nữa. Trước đó tôi cũng không đẹp nhưng trong tôi vẫn còn dáng vẻ của thanh xuân, còn sức trẻ của tuổi đôi mươi.
Tôi lê chân đến gần giường và ngồi sụp xuống, tay bấu lấy ga trải, hơi thở nặng nề, yếu ớt như đang nghẹt thở. Thím Hòa mua đồ ăn sáng bước vào thấy tôi như vậy thì vội vã chạy tới, đỡ tôi dậy, dỗ dành như một người mẹ. “Mai à, hay con ra ngoài đi dạo chút cho khuây khỏa đi. Ngồi trong phòng hoài cũng dễ suy nghĩ lung tung”. “Thôi ạ, con không muốn ra ngoài đâu. Đi với con bây giờ cũng khó khăn lắm rồi! Con cảm ơn thím nhiều lắm”. “Ừa, thôi con không muốn ra ngoài thì cứ nằm nghỉ nhé! Thím để đồ ăn sáng ở đây, con ăn rồi nghỉ đi. Thím chạy về quán cơm rồi trưa lên lại, có gì cứ gọi cho thím nghen!”.
Tôi mỉm cười vâng dạ rồi nhìn thím đi dần ra phía cửa. Cả sáng hôm đó tôi nằm ì trong phòng, tôi chỉ suy nghĩ vẩn vơ về cuộc đời. Liệu rằng tôi đã sống vì mình chưa? Đã từng yêu bản thân chưa? Rồi nhiều câu hỏi khác dồn dập, ồ ạt dội lên đầu tôi. Đang mắc kẹt trong suy nghĩ miên man đó, tôi thấy cái đầu trọc lóc của đứa trẻ con chạy ngang qua cửa sổ phòng bệnh tôi với tiếng cười giòn tan. Như bị hấp dẫn, tôi xỏ dép lê bước chân nặng nề ra ngoài. Đó là lần đầu tiên sau nhiều ngày tôi chịu đứng dậy và bước ra khỏi căn phòng bệnh ám ảnh.
Tôi đi dọc hành lang bệnh viện tìm theo cái dáng hình bé nhỏ khi nãy vừa nhìn thấy. Tôi gặp cô bé lớp hai với cái đầu trọc lóc, gương mặt trong veo như giọt sương sớm đang đuổi theo một con bướm trắng nhỏ. Cô bé thấy tôi đi tới thì dừng chạy. Quay lại cười hỏi: “Chị đẹp tên là gì ạ?”. Cô bé hỏi, đôi mắt tròn xoe, sáng long lanh. “Chị tên Mai. Bé tên gì nhỉ?”. “Em tên Nhi, Mai là hoa mai hả chị? Hoa mai nở vào dịp Tết, đẹp lắm. Mẹ em nói sau này em hết bệnh sẽ dẫn em đi ngắm hoa mai thật nhiều đấy ạ!”. Tôi cười, một nụ cười rất nhỏ. Có lẽ tôi biết, điều ước ấy của cô bé thật giản dị nhưng cũng thật khó…
Gần đó có bóng dáng cao gầy của chị gái từ phòng bên đi ra. Tôi chào hỏi qua loa định về phòng thì chị kéo tôi lại, rủ rê tôi nói chuyện và làm quen với mọi người gần đó. Chị tên Linh, ba mươi tuổi, chị bị ung thư vú di căn. Nghe mọi người kể chị yêu đời lắm, chị hay đàn ukulele vào mỗi chiều cho mấy đứa nhỏ, giọng hát khàn nhưng ấm áp vô cùng. Chắc có lẽ thấy tôi vào viện đã lâu nhưng không giao tiếp với ai. “Em biết không, khi biết mình bị bệnh, chị cũng tuyệt vọng lắm nhưng rồi chị gặp mấy bé như Nhi. Nhìn nó yêu đời, chị thấy mình còn sống là còn may mắn. Chị bắt đầu học cách chấp nhận và làm quen, chị cũng muốn lan tỏa tinh thần ấy đến những người đã từng giống chị, bị rơi vào vòng luẩn quẩn không lối thoát. Mỗi ngày trôi qua, chị không đòi hỏi gì nhiều, chỉ cần được ai đó mỉm cười với mình là đủ rồi”. Tôi ngồi bên cạnh, im lặng. Trái tim tôi, vốn đóng băng nhiều ngày, bỗng rạn nứt một đường nhỏ. Phải chăng, đó cũng chính là câu trả lời cho cuộc đời mà tôi đang tìm kiếm bấy lâu?
Từ hôm đó, ngày nào tôi cũng đi dạo hành lang, ghé từng phòng bệnh để trò chuyện. Có khi là chị Linh, có hôm là bé Nhi, ai cũng vậy, tôi đến thăm và nói chuyện nhiều hơn. Mỗi người một câu chuyện, một nỗi đau… nhưng tất cả đều cười - nụ cười tôi tưởng mình đã vĩnh viễn mất đi rồi. Từ đó, tôi bắt đầu viết nhật ký mỗi ngày. Không phải để than vãn mà để lưu giữ từng cảm xúc rất nhỏ. Đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy mình không thật sự cô đơn.
Sau hơn hai tháng điều trị, tóc tôi đã rụng gần hết. Tôi không còn cảm giác sợ hãi khi nhìn thấy từng sợi tóc vương lại trên gối, trong bồn rửa hay vương cả trên áo thím Hòa mỗi khi ôm tôi vào lòng. Tôi yêu những cọng tóc ấy. Chị Linh bảo, “Rụng tóc cũng là một cách để ta lột bỏ một lớp vỏ cũ, để sống trọn từng ngày còn lại bằng đúng con người mình”. Và tôi đã bắt đầu sống theo cách đó. Tôi đăng ký tham gia câu lạc bộ tình nguyện trong bệnh viện, nơi chị Linh tham gia, chúng tôi cùng các điều dưỡng và y bác sĩ tổ chức những buổi sinh hoạt nhỏ, những buổi học kiến thức, kỹ năng mềm cho bệnh nhi. Tôi còn xin phép được dạy các em nhỏ hiếu học nhưng bệnh tật không cho phép được học chữ, vẽ tranh, đọc truyện cho chúng trước giờ ngủ. Có hôm mệt rã rời sau hóa trị, chỉ kịp uống cốc nước đường rồi đến phòng chơi với bé Nhi và các em nhỏ khác. Cả người tuy đau nhức nhưng nhìn tụi nhỏ cười toe toét, tôi thấy mình như được tiếp thêm năng lượng.
Tôi cũng hiến đi phần tóc còn lại của mình rồi viết thư gửi đến nhóm thanh niên ở Hà Nội đang làm dự án tóc giả miễn phí cho bệnh nhân ung thư. Sáng nào tôi cũng cố dậy sớm không chỉ để vận động mà còn ra vườn cây của bệnh viện, tưới mấy khóm cây nhỏ do các bệnh nhân cùng nhau trồng. Lúc là rau cải, khi thì vài cành hoa cúc bé xíu. Chúng tôi gọi đó là “khu vườn của nắng” bởi với chúng tôi, còn thấy được cái nắng ấm áp ngày nào là còn hạnh phúc ngày đó.
Tối đến, tôi vẫn dành thời gian ghi chép từng câu chuyện, từng cuộc đời vào một cuốn sổ nhỏ. Tôi muốn rằng, dù ngày mai tôi có biến mất thì đâu đó vẫn còn những dòng chữ chứng minh tôi từng sống, từng nghe, từng cảm và yêu thương. Tôi bắt đầu tập mỉm cười thật nhiều. Và nếu muốn khóc, tôi luôn cho phép mình khóc, lòng tự do và chân thành với chính mình. Bắt đầu ăn ngon hơn một chút. Tôi không còn là cái bóng cô đơn trong bệnh viện nữa mà dần trở thành một phần ánh sáng nhỏ nhoi nhưng ấm áp trong những ngày mưa xám xịt của người khác. Và chính vì thế, bóng tối trong tôi cũng lùi dần.
Một chiều cuối đông nọ, sau khi cùng thím Hòa phát quà Tết sớm cho các bé trong viện, tay cầm gói bánh in, bất giác tôi ngẩng lên nhìn trời. Màu trời hôm ấy không xanh, chỉ xám nhạt nhưng tôi vẫn thấy đẹp đến lạ kỳ. Một xúc cảm không rõ từ đâu đến len lỏi vào tim tôi. Tôi quay sang thím, nói nhỏ trong tiếng xe máy rì rầm: “Con muốn về quê…”. Thím gật đầu, tay siết lấy tay lái. Đôi mắt ánh lên nỗi lo lắng: “Ừm, đi đi con”.
Nhà tôi nằm trong một con hẻm nhỏ ở ven thị trấn. Với tôi, nó cũ kỹ, ngột ngạt và lạnh lẽo dù trời đang nắng. Tôi đứng trước cánh cổng gỉ sét, tim đập chậm mà nặng. Mẹ bước ra mở cửa, ánh mắt không một cảm xúc khi nhìn thấy tôi. Ánh mắt ấy buốt lạnh hơn cả cơn gió mùa đang lùa qua khe áo khoác rộng thùng thình của tôi. “Trời đất... mày... mày về làm gì? Tưởng đi luôn rồi chớ. Về đây làm chi nữa...”. Mẹ buông giọng lạnh tanh, đầy dỗi hờn, ánh mắt vẫn dáo dác nhìn quanh như thể sợ ai đó bắt gặp.
Bà không hỏi một lời nào về bệnh tình của tôi. Không ngạc nhiên, không lo lắng, không một câu “mày có sao không?”. Chỉ có sự khó chịu hiện rõ trên mặt - như thể tôi là thứ gì đó phiền phức vừa quay về phá rối cuộc sống bình yên của cái nhà này.
Tôi không giận. Giọng bà nội từ trong vọng ra, vẫn lạnh như kim: “Thằng Thắng ngồi tù rồi, vừa lòng mày chưa? Mày còn lết về làm gì nữa?”. Bà lườm nguýt mẹ tôi đang trong dáng vẻ khúm núm. Tôi bước qua ngưỡng cửa, giọng bình thản, nở nụ cười nhạt: “Con chào bà nội, ba mẹ! Hôm nay, con không về để xin tiền ba mẹ cũng không phải để xin lỗi vì đã không gửi tiền về cho em khi ấy. Con chỉ muốn nói vài điều… rồi con đi”.
Ba vẫn ngồi đó, tay cầm điếu thuốc trước thềm, lặng im như bao năm qua. Tôi ngồi xuống, tay siết chặt, mắt nhìn mọi người - những người khiến tôi đau và cũng là những người tôi từng yêu thương đến xót ruột. “Con bị ung thư, giai đoạn cuối. Con đã điều trị được bốn tháng rồi. Không biết con còn sống bao lâu nữa. Con không nói để mọi người thương hại… Con chỉ muốn cảm ơn bà, cảm ơn ba mẹ đã sinh con ra, nuôi con lớn khôn. Con cũng gửi lời xin lỗi vì có lẽ, con chưa phụng dưỡng được cả nhà nhiều hơn”.
Không gian bỗng như đặc quánh. Cả nhà chìm trong sự tĩnh mịch đến nghẹt thở. Ba tôi vứt điếu thuốc xuống đất. Mũi giày di di điếu thuốc tàn bẹp dí. Mẹ lùi lại, lắp bắp nói không rõ: “Ung... ung thư? Thiệt... thiệt không con? Sao con không báo cho ba mẹ?”. “Con đã gọi cho mẹ để tâm sự, nhưng khi đó cả nhà đang bận chạy việc cho thằng Thắng”. Mẹ ngồi phịch xuống ghế, lấy tay che miệng, hai mắt đỏ hoe: “Mẹ… mẹ sai rồi. Mẹ không hiểu cho con”.
Tôi cười. Một nụ cười nhẹ như gió. “Con không trách ai cả. Nhưng con cũng không còn nặng lòng nữa. Những tháng ngày tăm tối nhất, đã có người vực con dậy, giúp con tìm thấy ánh sáng rồi”. Tôi đứng dậy rời đi. Mẹ bật dậy theo, tay níu lấy vạt áo khoác của tôi. “Mai... con đi nữa à? Có ba mẹ đây”. Tôi nhẹ nhàng gỡ tay mẹ ra: “Không đâu mẹ. Con còn vài người bạn đang chờ con ở bệnh viện. Con còn mấy đứa nhỏ đang chờ con kể chuyện”.
Tôi quay lưng bước ra khỏi cổng, tay nắm chặt túi đồ nhỏ. Trong lòng nghĩ đến thím Hòa, đến các bé trong viện... và bác cả - người duy nhất trong gia đình ruột thịt đã lo cho tôi.
Hôm sau, trời mưa to như trút nước, xám xịt, tôi đến trại giáo dưỡng gặp Thắng. Nó ngồi đối diện, mắt nhìn lom lom. Nhưng lần này, không còn ánh nhìn ngạo nghễ của tuổi bồng bột, ngông cuồng. “Chị gầy đi nhiều quá. Nhưng... sao chị vẫn cười được vậy?”. Tôi mỉm cười thật lòng, không gượng gạo, không buồn bã, mà thanh thản như người đã buông được những xiềng xích cuối cùng: “Chắc có lẽ do chị biết... mình không còn nhiều thời gian để buồn nữa rồi”. Thắng im lặng. Rồi hỏi: “Chị... có giận em không?”.
Tôi lắc đầu. “Chị không giận, chỉ từng ghen tị. Từng muốn bỏ mặc em luôn. Nhưng rồi chị hiểu ghen tị cũng không khiến ta hạnh phúc hơn. Chỉ khiến thời gian ít ỏi càng thêm lãng phí. Em còn trẻ, còn sai nhưng em còn cơ hội sửa. Đừng giống chị... sống mãi cho người khác đến mức quên mất mình từng mơ gì”. Nó cúi đầu, thốt khẽ: “Em sẽ cố… Em sẽ sống tốt hơn”. Tôi nắm tay nó, lần đầu tiên sau nhiều năm: “Chị tin em. Vì em là Thắng, không phải niềm hy vọng của gia đình mà là em trai của chị Mai. Vậy là đủ”.
Tôi gửi tặng Thắng cái áo ấm màu ghi như màu ngày hôm đó. Tôi và nó hai con người mang hai vết thương không giống nhau, ngồi bên nhau trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Rồi thời gian kết thúc. Chúng tôi hẹn gặp lại. Nhưng tôi không biết… liệu mình có kịp giữ lời hay không. Tối hôm ấy, trên chuyến xe quay lại Sài Gòn, tôi nghe lại bài hát quen thuộc. “Nếu một mai tôi có bay lên trời/ Thì người ơi tôi đã sống rất thảnh thơi…/ Nếu một mai tôi có bay qua đời/ Thì người ơi tôi đã sống rất tuyệt vời…”.
Tôi tựa đầu vào cửa kính, lòng nhẹ như mây. Không còn oán giận. Không còn tiếc nuối. Tôi không còn sống được bao lâu nữa nhưng ít ra, tôi đã thực sự sống rồi!
Những chiếc lá bàng đỏ rực rơi như bươm bướm lượn trong sân viện. Tôi ngồi bên cửa sổ phòng bệnh, quấn khăn che đầu, tay cầm cuốn sổ nhỏ đã dày đặc chữ. Trang cuối, tôi viết: “Tôi từng sống một cuộc đời mờ nhạt, lặng lẽ giữa những định kiến và ràng buộc. Nhưng giờ đây, tôi đã sống khác. Tôi biết yêu, biết tha thứ, biết mỉm cười dù ngày mai còn hay mất. Nếu một mai tôi có bay lên trời… Tôi mong người nhớ rằng: tôi đã sống. Thật sự đã sống”.
* *
*
Một buổi chiều đầu hạ, sân bệnh viện rợp nắng vàng. Tôi ngồi trên chiếc ghế đá dưới tán bàng, quấn khăn che cái đầu trọc, tay lật cuốn sổ nhỏ đã sờn gáy. Bên kia hành lang, bé Nhi ôm bó hoa cúc chạy lại, reo to: “Chị Mai ơi, hôm nay kể tiếp chuyện công chúa tóc mây nha!”. Tôi ngẩng lên, cười rạng rỡ. Nụ cười khiến đôi mắt hằn quầng thâm bỗng sáng lấp lánh. Tôi khép cuốn sổ, đứng dậy. Bước chân vẫn chậm, hơi thở vẫn nặng, nhưng trong lòng dường như tràn đầy sức sống. Vì chỉ cần có một người cần mình, mình vẫn còn lý do để đi tiếp.
Ở góc xa, thím Hòa ngồi trước cổng bệnh viện, trên tay là một cuốn sổ khác - cuốn tôi tặng thím hôm sinh nhật. Thím lật từng trang, thấy xen giữa những câu chuyện về bệnh nhi, về khu vườn nhỏ và những buổi chiều tưới cây, có một dòng chữ viết bằng mực xanh: “Ngày nào còn thấy nắng, là ngày đó mình còn sống”.
Thím Hòa mỉm cười, ngẩng lên. Trên hiên, tôi đang ngồi giữa đám trẻ, kể chuyện bằng giọng ấm áp. Nắng đầu hạ xuyên qua kẽ lá, rơi thành những vạt sáng vàng lên vai cô gái trẻ.
N.T.P