Sóng trong lòng sóng
Cha theo tôi xuống bếp pha trà mời anh. Cha ghé tai tôi hỏi nhỏ: “Nì, chứ hắn là chi của mi rứa?”. Tôi quay lại, thấy nét mặt nghiêm trọng của cha mà phì cười. “Chi là chi? Ý cha muốn hỏi chi?”. Cha gãi đầu: “Thì bồ của mi hay là?...”.
Tôi nói to, cốt cho anh ở nhà trên cũng nghe. “Dạ, ảnh là bạn học cùng khóa sư phạm Quy Nhơn với con”. Cha gật gật. “Quy Nhơn, hèn chi...”.
Cha bỏ lửng câu nói rồi lên nhà trên. Đến lượt tôi thắc mắc không hiểu ý cha muốn nói hèn chi cái gì.
Tôi bưng bình trà nóng với khay ly thủy tinh vừa rửa sáng bóng lên nhà trên đúng lúc anh soạn xong mấy thứ trong túi xách ra bàn. Cái bàn gỗ mít gia bảo do ông nội để lại, đậm nét thời gian trên từng thớt gỗ, già và quý, nhưng không đủ rộng để chứa hết thứ anh mang theo. Cha phải đem lọ hoa hồng vàng tươi tôi vừa mới cắt từ chậu hồng để ngoài hiên đặt lên bàn thờ. Anh lóng ngóng vừa sắp xếp vừa nói như trình sính lễ làm tôi cứ đứng đơ ra rồi ôm cây cột nhà nhìn anh cười khúc khích. Cha lườm tôi. “Cái chi mi cười hoài rứa?”. Anh đỏ mặt lườm lại tôi.
“Thưa bác, đây là bánh tráng nước dừa, đây là bánh ít “níp’’, đây là bánh hỏi, đây là bánh ít mặn, đây là bánh xu xê hay còn gọi là bánh phu thê, đây là bánh đậu xanh nhân dừa, đây là chả cá chiên, đây rượu Bàu Đá. Tất cả của quê con, còn đây là đường phổi đường phèn con ghé ngang Quảng Ngãi mới mua”.
Cha tôi kéo cái ghế ngồi xuống. Hỏi ngang như cua: “Chứ anh mang mấy thứ ni ra đây chi rứa?”. Anh lại đỏ mặt liếc tôi, ấp úng: “Dạ mấy thứ này hồi xưa em Phương rất thích nên con mang ra cho Phương. Còn rượu thì con biếu bác”. Cha cầm chai rượu xoay dọc xoay ngang rồi nhìn tôi vẫn đứng ôm cây cột nhà, thả từng lời: “Hỏi con Phương có nhận không, chứ bác mô có thích của ngọt. Bác thích thứ ni nè, nhưng có đọ được với rượu Hồng Đào nổi tiếng xứ Quảng của bác không thì còn xem lại đã”.
Mồ hôi đã lấm tấm trên trán anh. Tôi nín cười, đưa tay gom mấy gói lớn gói nhỏ trên bàn, nói: “Em cảm ơn anh còn nhớ những thứ em thích của quê anh, nhưng anh làm như nhà em có 10 con Phương không bằng, ai đâu mà ăn cho hết, anh mang ra nhiều thứ quá thật vất vả cho anh”.
Cha chen vào: “Thôi chuyện đó hai đứa bay tính. Nói ít thôi, con Phương nấu cơm, cha bắt con gà làm thịt, tối nay nhậu với rượu Bàu Đá nghe con”.
* *
*
Nắng chiều đổ xuống hiên nhà kéo theo một vệt sáng len qua gầm bàn, rọi thẳng vào tận chỗ chân tủ thờ. Tôi thấy thấp thoáng nụ cười của mẹ trong ánh mắt mẹ nhìn tôi, nên tôi thắp một nén nhang cắm vào bát đã đầy chân nhang. Anh nhìn theo tay tôi, hỏi nhưng như để tự nói rằng mình đã biết rồi: “Mẹ em....”.
Rồi anh cũng làm theo. Một nén nhang cho mẹ.
Bữa cơm tối hôm ấy lâu hơn thường lệ. Trong hơi men đã ngà ngà cha tự nhiên khai hết, như để trút nỗi lòng nặng trĩu mà lâu nay chỉ có mình tôi san sẻ cũng không đủ cho tâm cha thanh thản. “Mẹ con Phương qua đời ngay khi sinh con Phương đó, con ơi...”.
Cha gọi anh là con, cũng gọi tôi là con chứ không mi tau như thường ngày cha nói.
“Mẹ hắn sinh khó, bà mụ vườn nớ giỏi lắm mà cũng thua định mệnh. Bả chỉ cứu được con Phương còn mẹ hắn về trời rồi. Mấy chục năm ni bác không dám thương ai ngoài mẹ hắn nữa. Hồi hắn vô Quy Nhơn học, ở nhà bác khóc miết, khóc khô người luôn, có lần hắn về để kiếm chồi sắn mà hắn nói thầy phụ trách lao động gọi là hom khoai mì để vô trồng trong đợt lao động ở chi chi đó, bác quên tên rồi”. Tôi chen ngang: “Vân Canh với Nam Tăng đó cha”.
Cha nói tiếp: “Hắn tả Quy Nhơn đẹp lắm, trường hắn học đẹp lắm, là nơi đất võ trời văn. Chu choa, phải nói là bác mê cái ông vua Quang Trung. Bác ao ước được một lần vô đó cho biết nhưng cứ hết mùa lúa đến mùa khoai, níu qua níu lại, rồi thoắt cái hết một năm, hắn ra trường đi dạy. Bác mừng lắm, may mà hắn chỉ học có một năm thôi. Ra trường, mới đầu hắn dạy ở vùng quê xa mỗi tuần mới về nhà, bác lại xa con nhưng không đến nỗi thăm thẳm mấy trăm cây số như Quảng Nam mà vô Quy Nhơn.
Chừ hắn về gần nhà sau 8 năm ở vùng trung du đó cũng đỡ cho bác khi trái gió trở trời. Nhưng bác chờ mãi chờ mãi mà chưa thấy hắn lấy chồng, bác khổ...”.
Uống một ly rượu đầy tràn tự tay cha rót, men Bàu Đá có gì mà cha cởi tấc lòng thế không biết. Rồi cha đứng lên bưng ly rượu tới bàn thờ nói một mình: “Về uống với tui, với con Phương và bạn hắn một ly nè bà ơi!”.
Lảo đảo, cha về lại ghế ngồi, nhìn anh, hỏi một câu vừa dở vừa khó đỡ: “Chứ con có vợ chưa con, hay là...”.
* *
*
Bóng trăng non đầu tháng mong manh tỏa chút ánh sáng huyền ảo xuống hiên nhà chỗ hai đứa ngồi từ từ tan dần, đâu đó vang lên tiếng gà gáy canh đầu. Sao Mai lấp ló. Anh gục đầu xuống thành đàn, hai vai nhô lên. Anh không đàn nữa, tôi cũng không biết nói gì. Hồi chiều anh hỏi nhà Phương có cây guitar không. Tôi biết anh sẽ đàn cho tôi nghe nên chạy qua hàng xóm mượn về, cha tôi nông dân ngoài cầm cày cuốc ông có biết đàn đâu mà sắm, tôi cũng mù chuyện này. Tôi nghe trong lặng im từng bước chân từ dĩ vãng tìm về.
“Này Phương, làm bạn của anh nhé!”.
Tôi ngây thơ mà còn lí lắc, phá lên cười: “ Ừ, thì đang là bạn đây nè”.
Anh không nói gì thêm. Mãi về sau tôi mới hiểu anh muốn thêm vào câu nói một từ nữa mà không dám. Mãi cho đến hôm nay gặp lại...
Anh là dân Quy Nhơn gốc, cùng được tuyển vào sư phạm khóa hai như tôi sau khi thi rớt đại học. Lẽ ra theo hộ khẩu thì anh phải ở ngoại trú nhưng anh đã mạo muội tìm gặp thầy hiệu trưởng trình bày gia cảnh mình. Thầy Tô Uyên Minh hồi đó còn trẻ, thấu hiểu cảnh mẹ ghẻ con chồng mà anh phải chịu đựng nhiều năm rồi, thầy cho anh vào nội trú. Rời căn nhà trên đường ven biển anh vào trường rất gọn hành lý nhưng không quên mang theo cây đàn. Anh học khoa Toán Lý như tôi. Khu B là khu dành cho dân Sử Địa và Toán Lý, khu xây theo hình bát giác khép kín có ba tầng, giữa là khoảng sân nhỏ với nhiều cây cảnh và ghế đá. Mỗi trụ cột là một gốc hoa giấy đủ màu, con gái Sử Địa ở tầng trệt chăm sóc gốc hoa tốt bao nhiêu thì vươn lên lầu ba mấy ông con trai bẻ trụi cành bấy nhiêu. Con gái Toán Lý ở lầu hai và tầng trên cùng là con trai hai khối ấy. Tầng trệt có một nhà ăn dài rộng chiếm hết một dãy dài, nơi mỗi ngày hai lượt chúng tôi gặp nhau với nhiều cung bậc cảm xúc của đời sinh viên xa nhà trong lứa tuổi ăn như rồng cuốn mà không có gì ăn ngoài canh “toàn quốc” với cá kho mặn đưa đường cho cơn độn mì sợi.
Tôi là con gái nhà quê nhưng chân yếu tay mềm vì thiếu sữa mẹ từ lúc lọt lòng, tôi hay đau ốm vặt. Có một lần tôi ngất xỉu, bọn con gái trong phòng kêu con trai trong lớp khiêng xuống phòng y tế, lẫn trong những khuôn mặt quen của mấy ông trong lớp có ánh nhìn lạ khi tôi tỉnh dậy. Sau này khi thân rồi anh mới nói, anh đang ngồi chơi ở phòng của bạn nam lớp Phương, thấy bạn ấy chạy đi cứu Phương anh chạy theo thôi, chứ có biết Phương đâu.
Ngẫu nhiên mà phòng anh lại ở ngay trên đầu phòng của tôi. Trừ ngày chủ nhật được thả tự do, hằng ngày học hai buổi trên lớp. Giờ ăn, giờ nghỉ, giờ tự học đã được định sẵn rồi không hề xê dịch một giây nào. Lúc bảy giờ tối đến chín giờ là giờ tự học. Khu nội trú im ắng, thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng dép nhẹ tênh của mấy “ông” cờ đỏ đi dạo quanh kiểm tra xem phòng nào không thực hiện nội quy, ghi tên để đó sáng thứ hai đem ra xử dưới cờ. Dân nội trú vừa sợ vừa ghét mấy ổng lắm, ghét mà không dám nói ra. Bọn con gái giả bộ ngọt ngào để được vài phút phá lệ như đứng lên đi vào nhà vệ sinh hay lôi đồ ăn ra nhấm nháp chứ ngồi một chỗ khi về đêm cái bụng cồn cào ai mà chịu được.
Kẻng reng reng... báo hết giờ tự học thì khu nội trú như tổ ong bị vỡ, vui phải biết. Được tự do thêm một giờ đồng hồ vàng ngọc nữa nên ai cũng tranh thủ. Hành lang đầy kín kẻ qua người lại, tiếng gọi nhau í ới, tiếng nói tiếng cười râm ran. Con trai con gái trong lớp ùa vào phòng nhau hỏi thăm có chi ăn không, nếu hết lương khô thì kéo nhau ra quán Thu Vàng cạnh cổng trường. Đó là “thiên đường” mà cũng là “địa ngục” của dân nội trú. Thiên đường vì món ăn vừa ngon rẻ hợp túi sinh viên, địa ngục là món đồ nào lỡ cầm cố ở đó rồi thì kiếp sau mới hòng tìm lại chủ cũ. Cặp đôi nào yêu nhau thì dắt đi xa hơn, ra bờ biển tâm tình trong hương biển mặn với mùi rác thi thoảng trộn vào từ eo “nín thở” bay lên. Ai cô đơn thì leo lên giường đọc sách...
Vào một đêm thứ bảy tôi nghe tiếng đàn vang lên ngay trên đầu khi tôi đứng một mình trong bóng tối của bụi hoa giấy, tựa cằm vào lan can nhìn về hướng quê nhà lòng nhớ cha đến khóc. Không biết khi tối cha có nấu chi ăn không, hay là mệt quá với đồng áng rồi làm vài củ khoai cho qua bữa. Tôi khóc âm thầm với bài “Lòng mẹ” của Y Vân vang lên thổn thức. Tôi mồ côi mẹ nên mẹ tôi chính là cha. Đôi lần tôi khuyên cha nên thương thêm ai đó để tuổi già khỏi đơn chiếc, tôi sợ một mai tôi theo chồng cha tôi sẽ khổ một mình. Cha đâu có chịu, cha nói, cứ yên tâm học hành đi, ra trường làm cô giáo rồi lấy chồng thì cha mới tính tiếp. Trong miên man hồi ức tôi nghe thêm nhiều bài độc tấu rất lạ rất hay nữa của tay đàn trên đầu. Xa xa, tiếng sóng vọng về hòa vào giai điệu bài Serenata, ngày trước nghe Thái Thanh hát lời Việt trong chiếc radio nhỏ xíu của cha, giờ khiến tôi xao xuyến.
Men theo tiếng đàn tôi lên lầu ba. Hành lang vắng tanh, giờ này có ông nào chịu ngồi yên trong phòng, nhưng tôi vẫn sợ bị bắt gặp khi bước vào lãnh thổ bọn con trai lúc vắng vẻ mà không có lý do chính đáng thì khó nói lắm. Nên tôi chỉ dám đứng ở một góc để nhìn nhanh rồi chạy vội xuống cầu thang. Cái dáng ngồi gục xuống thành đàn mới tội nghiệp làm sao. Tôi không biết tên biết lớp người ấy nhưng tôi biết, với tiếng đàn mang nhiều ẩn ức này thì người ấy chắc phải có điểm gì đó giống tôi. Một đêm nọ tôi ra ban công chờ tiếng đàn thì bất ngờ một sợi dây thả thòng từ lầu ba xuống ngang tầm mắt. Cuối sợi dây có cột mảnh giấy nhỏ. Đưa nhanh tay vội gỡ tờ giấy rồi chạy ngay vào phòng. “Mình làm quen nhé. Biết là đêm nào ở tầng dưới bạn cũng nghe mình đàn, biết có lần bạn đã lên tầng trên nhìn mình...”. Nội dung ấy đã làm tôi phát sốt, đâm ngơ ngẩn. Tôi giấu kín mấy nhỏ cùng phòng.
Thấm thoắt một năm qua nhanh. Phần lớn giáo sinh gốc Quảng Nam - Đà Nẵng ra trường dù chưa đủ hệ đào tạo nhưng xã hội đang cần. Cũng có vài bạn ở lại học thêm một năm nữa vì nhiều lý do khác nhau. Buổi chia tay diễn ra thật lạ. Kẻ khóc người cười huyên náo cả sân trường. Tháng mười hai, trời Quy Nhơn trở lạnh nhưng cái lạnh chưa thấm chi bằng nỗi biệt ly. Tôi thì vui như chim sáo vì được về với cha. Tôi đâu biết anh trốn mất, liếc tìm anh mà không thấy thì thôi. Tôi lên xe ổn định chỗ ngồi rồi mới chợt nhận ra mình buồn.
* *
*
Mười năm sau.
Bằng nỗ lực thật lớn tôi không ngờ được, anh đã đi tìm tôi lần đầu. Tôi vẫn là tôi, vui tươi lí lắc như ngày xưa và tôi vẫn là cô gái chưa chồng nhưng anh đã một lần gãy gánh. Tôi bàng hoàng nghe anh kể quãng đời mười năm ấy mà xót xa nghĩ. Nếu ngày xưa anh nói những gì anh cần nói với tôi, có lẽ sẽ khác hôm nay rồi. Ngày ấy tôi biết giữa chúng tôi chỉ hơn tình bạn nhưng chưa đến ngưỡng tình yêu. Chúng tôi là huynh đệ, đúng hơn là đồng môn như bao đồng môn khác. Nhưng có thể lắm, có thể khi anh đưa bàn tay ra cho tôi nắm và dắt tôi đi đến một điểm hẹn thì anh sẽ không phải làm người cha đơn thân ở tuổi ba mươi còn quá trẻ như bây giờ.
Rồi anh lại ra đi trong im lặng. Anh để lại một địa chỉ và số điện thoại ở văn phòng trường anh đang dạy. Cha tôi lại một phen nữa thất vọng...
Tôi lấy chồng như là chuyện tất nhiên. Cơm áo gạo tiền tã lót sữa cháo... cuốn tôi vào vòng xoáy cố hữu của một người mẹ. Rồi đến chuyện trường lớp học trò giáo án vân vân... khiến tôi không có cách gì gặp lại bạn bè ở gần chứ nói chi đến anh xa lơ xa lắc nơi ấy. Thỉnh thoảng ăn lại món ăn xứ Nẫu giờ đã bày bán nhiều tại quê nhà tôi thấy lòng mình chùng xuống, nhớ Quy Nhơn, nhớ anh, nhớ trường, nhớ biển... Nhưng nhớ thoáng qua rồi cất vào ký ức vì tôi bận tay bồng tay bế. Có một lần giờ nghỉ ở trường, tôi thử gọi điện cho anh thì biết anh đã chuyển đi trường khác. Lại một lần nữa viên sỏi thả xuống hồ sâu không một vọng âm. Anh như cánh chim trời lạc gió. Tôi biết làm sao được. Tôi kể với chồng về anh. Nói khi nào chồng đi công tác có dịp vô Quy Nhơn thì tìm giùm xem anh ấy đang ở đâu. Chồng vui vẻ nói để đi tìm, tìm được chồng sẽ kết nghĩa anh em với ổng, người đâu mà tốt bụng...
Chưa tìm ra anh thì bạn học cũ đến nhà báo là trường sư phạm mình tổ chức ngày hội khóa hai. Tôi mừng quá, tôi sẽ vào lại Quy Nhơn, về lại trường cũ may ra tìm thấy anh. Mọi dự tính không thành vì con tôi bị bệnh, tôi đành chờ năm sau.
Năm sau. Rồi vài năm sau nữa. Khóa hai của tôi đã nhiều lần tổ chức hội khóa ở Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng theo dọc miền đất nước nơi quê quán và nơi có giáo sinh khóa hai chúng tôi đang công tác. Lần nào chúng tôi cũng được đón tiếp thầy hiệu trưởng và các thầy cô cũ. Thầy cô đã già lắm và chúng tôi cũng đầu hai thứ tóc con cháu đầy nhà rồi. Chúng tôi không quên những kỷ niệm với thầy cô, thầy cô cũng nhớ gần hết từng đứa chúng tôi. Thật là đáng quý biết bao. Chúng tôi kết nối lại nhau qua số điện thoại, zalo, facebook và lập một trang mạng chung để trao đổi thông tin và chia sẻ tâm tình. Từ đó chúng tôi lần tìm ra những bạn khác chưa kịp biết tin về nhau. Mỗi ngày ai trong chúng tôi cũng phải dạo qua trang để nắm tin tức. Tin vui cạn dần mà tin buồn lại đầy thêm. Biết làm sao bây giờ. Đã là quy luật sao cứ ngậm ngùi! Mỗi ngày mỗi chiếc lá trên cành K2 mỗi héo úa, rơi rụng. Ôi, đời một người ngắn thế sao. Còn bao người chưa gặp lại, còn bao điều chưa nói cùng nhau, còn bao yêu thương muộn màng trao nhau trong luyến tiếc...
Anh vẫn bặt tăm. Tôi âm thầm lùng tin anh trong bạn bè nhưng không ai biết, hoặc là biết mơ hồ, chưa chính xác.
Vào một ngày niềm tin thôi thúc, tôi trở lại phố biển sớm hơn dự định. Quy Nhơn bây giờ không còn là Quy Nhơn mộc mạc của ngày xưa. Quy Nhơn thay da đổi thịt, nhanh chóng đi lên, phát triển nhiều mặt. Những con đường nhỏ trong thành phố thoáng rộng xinh đẹp, nhà cửa khang trang, chợ Lớn sầm uất và đặc biệt là chiếc “eo nín thở” gần trường của thập niên 70 ấy đã mất rồi. Thay vào đó một công viên xanh mát rộng lớn xinh đẹp. Tôi thơ thẩn để tìm tôi, tìm anh nhưng biết tìm từ đâu bây giờ. Tôi cố nhớ về căn nhà cũ của ba mẹ anh ở con đường nhỏ tên Ngô Mây nhưng khi tôi tìm đến đã không còn dấu tích cũ. Quay lại cổng trường xưa, tôi ngồi khóc một mình bên vệ đường.
Ngày hội khóa đã đến, bạn bè chúng tôi sẽ gặp nhau. Hy vọng mong manh lắm nhưng tôi không nguôi hy vọng. Anh sẽ xuất hiện trong đám đông. Anh với cây đàn cũ, bản nhạc cũ, góc hành lang cũ và nhất định lần này khi gặp lại anh tôi sẽ không ngần ngại nói rằng, mãi mãi trong góc khuất của lòng tôi hình ảnh anh ngồi gục xuống thành đàn vẫn còn đó. Dù không biết nói để làm gì nhưng tôi vẫn nói.
Phía trước tôi là vùng mây trắng và sóng...
Phía sau là dĩ vãng mặn ngọt chua cay...
Và tôi, như biển.
Sóng trong lòng sóng vẫn dội về đêm đêm...
N.P.D