Mai Hữu Phước, thương những xa xôi

29.08.2025
Ngô Đức Hành

Mai Hữu Phước, thương những xa xôi

Tập thơ "Chạm thu" của nhà thơ Mai Hữu Phước

Lê Quý Đôn  (1726-1784),  nhà bác học, nhà thơ thời cận đại từng nói: “Thơ phát khởi từ lòng Chạm thu của đó, mang ra tiệm thợ trẻ thì họ từ chối sửa. “Tôi” chợt nhớ ra người thợ già ở góc đường - có thể đó là nơi “tôi” đã từng sống. Ông thợ già cần người ta”. Đọc tập thơ nhà thơ Mai Hữu Phước, càng nhận ra thêm điều này, đó là “khởi lòng” của một nhà thơ tuổi tác “chạm thu”.

Tháng năm dài cứ vùn vụt trôi qua/ Về lại chốn xưa thăm con đường cũ/ Hỏi thăm người thợ già từ lâu đã khuất/ Tôi lặng lẽ bên đời thương tiếc những xa xôi” (Người thợ già và chiếc đồng hồ cũ).

Chủ thể trữ tình trong bài thơ này là “tôi”, có chiếc đồng hồ cũ hỏng gì mẫn “chỉnh sửa thời gian trên xưa cũ đã lỗi thời”.

Thợ trẻ/ thợ già là phép tu từ so sánh trong bài thơ và thái độ của họ trước chiếc đồng hồ cũ cần sửa, tạo nên hiệu quả về rung cảm thẩm mỹ cho người đọc. Sau việc sửa chiếc đồng hồ và sự đồng cảm, chia sẻ, chỉ dễ gặp ở người cùng thế hệ. Vấn đề khác, ảo hơn, đấy chính là thái độ sống đối với “những xa xôi”.

Đọc Chạm thu của Mai Hữu Phước, người đọc nhận ra tác giả đã ở ngưỡng tuổi “sống kỹ”, “sống đủ” với chính mình và nhân thế; đủ hanh thông và bầm dập ở cuộc đời để ngộ về các giá trị.

Mạch thơ trong Chạm  thu, gồm 99 bài, dẫu được phân chi thành 4 phần “Sắc màu cuộc sống”, “Thương nhớ ngày xưa”, “Đó đây xuôi ngược”, “Hoài niệm xanh tươi”, nhưng vẫn cho thấy một “bản đồ” tự sự, “bản đồ” hoài niệm của tâm hồn. Trong phần I là những “Cảm tác bên tờ lịch”, “Gặp bạn”, “Vô danh”, “Trò chuyện với súng thần công thành Điện Hải”, “Tâm sự kẻ về hưu”, “Đối ẩm”, “Uống rượu một mình”...; phần II là “Lời cầu chúc lên

 

chùa”, “Chưa xa đã nhớ”, “Thuở nghèo kiết xác”, “Ngày cuối năm”...; phần III là những cảm xúc “tức cảnh sinh tình” sáng tác trên các vùng miền trong và ngoài nước nơi nhà thơ từng đến; phần IV là “Như là nỗi nhớ”, “Chạm thu”, “Đêm đợi bão”...

Thơ Mai Hữu Phước là những cảm xúc, tâm sự riêng tư, nhưng đọc lên, người yêu thơ ông nhận ra ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân loại. Ông bắc những “nhịp thơ” làm chiếc “cầu nối” giữa tác giả/ nhân vật trữ tình trong thơ với con người. “Ta biết tìm ai trong nẻo nhớ/ Buồn vui còn biết tặng ai đây/ Cành hoa trong lọ chừng khô héo/ Ngày rộng trào dâng lắm đọa đày” (Uống rượu một mình).

Cô đơn là một đặc tính của con người, một trạng thái tồn tại; nhưng với nhà thơ nó còn là nguồn cảm hứng cho thi ca. Là thi sĩ, không ai không... cô đơn, chính vì thế vùng ký ức trong tâm hồn họ thường bị “đánh thức”, gọi lên để “tra khảo”. Suy cho cùng cô đơn cũng là một vẻ đẹp.

Cuộc đời mưu sinh vất vả/ Niềm vui phân phát cho đời/ Bán mua cái niềm hy vọng/ Phận mình côi cút nhỏ nhoi” (Người bán vé số). Mai Hữu Phước là một nhà thơ giàu lòng trắc ẩn, tâm hồn biết rung lên trước phận người. Giọng thơ Mai Hữu Phước hồn hậu và gần gũi...

*

*     *

 Chạm thu không chỉ là tự sự của tác giả với chính mình trong nỗi cô đơn tâm trạng; không chỉ chia sẻ trắc ẩn với thân phận mà còn là suy ngẫm về thế sự, đời sống. Trong Chạm thu có 3 bài thơ về đề tài Covid-19 là “Khuyên em thời Covid”, “Phố mưa chiều Covid”, “Mùa Covid đi qua”, cho thấy Mai Hữu Phước luôn ưu tư, suy tư trước những vấn đề thế sự  của đất nước. Thơ là hiện thực phản ánh qua tâm trạng nhà thơ; hay nói cách khác hiện thực được khúc xạ qua tâm trạng mà thành thơ.

“Bao nhiêu người bình yên/ Bao nhiêu người làm mồi cá dữ và cướp biển/ Linh hồn vất vưởng trùng khơi/ Mẹ ngồi khóc/ Tiếng đục, khan không còn nước mắt” (Mẹ khóc). Đây là bài thơ có cách nhìn khá mới về hòa hợp dân tộc, về vết sẹo của khúc khải hoàn và thức tỉnh, bởi “Nỗi đau chưa bao giờ dịu/ Vết thương lòng mưng mủ/ Nhức nhối/ 30 tháng Tư/ Sum họp và ly tan”.

Tuy nhiên, nổi bật hơn cả trong Chạm thu là những bài thơ về đề tài về tình yêu. Mai Hữu Phước là một nhà thơ có tâm hồn trẻ trung, luôn ngạc nhiên trước tình yêu. Và vì ngạc nhiên - một phẩm chất tâm hồn, nên ông mới có nhiều sáng tạo về các cung bậc của tình yêu.

Ta có em như hồng nhan tri kỷ/ Bình rượu đời ngập lắm nỗi chua cay/ Rót cả mắt cả môi vào đắm đuối/ Quẳng gánh ưu tư vui hết đêm này” (Đối ẩm).

Ta rót em vào trong đáy cốc/ Nghe lòng rưng rức những mùa phai/ Chưa nhấp môi cay đời đã đắng/ Thì xin thử cạn tiếp chung này” (Uống rượu một mình).

“Em như mùa cổ tích/ Nhuộm xanh màu ước mơ/ Ta xưa chừ quên lối/ Biết đâu phương trở về” (Chiều như là kiến cắn).

Ở tuổi “Về hưu mới thấy mình thong thả” thì còn yêu gì nữa? Thong thả mới có thời gian sống chậm với quá vãng, hồi ức. Mà thi sĩ thì như Xuân Diệu nói, không bao giờ có tuổi. Nhà thơ, dẫu lớn tuổi nhưng trái tim họ luôn trẻ thơ, rung động, luôn “đầu đời”. Đấy cũng là một ân huệ thượng đế ban cho nhà thơ.

Mai Hữu Phước là người đa cảm. Tình yêu của nhà thơ, nói như nhà lý luận phê bình - tiến sĩ Lê Thành Nghị, người được nói đến trong thơ nhiều khi chỉ là “nhân vật trữ tình”, mơ hồ thôi, thoáng qua thôi, chỉ là “lá diêu bông” không có thật. Nhưng sự phân thân của người viết là có thật, thoáng mơ hồ kích hoạt trái tim đa cảm của nhà thơ.

Vành môi em đẹp trăng mười tám/ Gót liễu đài trang nét dịu hiền/ Vòng tay Thiên sứ em chào đón/ Nụ cười rạng rỡ một hàng hiên” (Nhớ xưa). “Đêm ngủ giữa đại dương đầy gió/ Sóng nói gì sóng vỗ triền miên/ Khuya vắng lặng đất trời tĩnh mịch/ Tàu nghiêng bên nào cũng nhớ em” (Ngủ giữa đại dương). Thế đấy, vòm em che kín cả xưa và nay, ngay cả khi nhà thơ trên tàu đi công tác cùng các chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam, hình ảnh “em” luôn đầy lên, thổn thức giữa đại dương.

Nhà thơ Mai Hữu Phước quê gốc Đại Lộc, Quảng Nam (cũ), hiện sống và viết ở Đà Nẵng; do vậy tình yêu trong thơ ông thường gắn với xứ Quảng. “Hình như nắng cũng vàng hơn chút/ Trời cũng xanh hơn thuở ban đầu/ Gió vui hơn từ khi em đến/ Môi lá hát mừng khi có nhau” (Từ khi em đến). Sự kỳ diệu, kỳ ảo của tình yêu luôn làm cho trời đất hân hoan, ngôn ngữ thơ tình luôn khoái cảm, hoan lạc. Vì thế mà “Anh xin gom hết mùa thương lại/ Gói giữ cho nhau trọn kiếp người”.

Văn là người! Đấy là cách nói cũ. Tôi thích cách nói của nhà văn/ nhà thơ Trịnh Bích Ngân hơn. Chị quả quyết: “Thơ không chịu được sự che đậy. Thơ càng không chấp nhận nửa vời... Thơ chân thành phơi bày... Chia sẻ và lặng lẽ hiến dâng”. Nói theo cách ấy, không ai giấu được bản thể qua thơ, thậm chí thơ truy nguyên bản thể.

Mai Hữu Phước là người nặng lòng với cố thổ, người thân. Chính vì thế trong Chạm thu có một mảng ký ức về vườn xưa, về mẹ, về vợ, về bạn bè... cất lên tiếng nói. Đó là“Tình bạn”, “Xuân trong vườn mẹ”, “Cuối năm về quê vợ”, “Mẹ ơi sắp Tết”, “Thơ viết cho con”, “Khi con 18 tuổi”, “Mẹ đã về nơi có ánh mặt trời”, “Về lại vườn xưa”... Trong tâm hồn Mai Hữu Phước, quê là lối về “Có đi đến hết cuộc đời/ Mới bâng khuâng nhớ một thời đã  qua/ Có đi đến những miền xa/ Mới tương tư một quê nhà bình yên” (Một lối về). Trong văn hóa người Việt, còn mẹ là còn quê hương, nhưng không mẹ nào ở được với đàn con của mình mãi mãi. Mẹ Mai Hữu  Phước  cũng đã về miền mây trắng, dẫu là trống vắng không thể lấp đầy, nhưng nhìn đâu ông cũng ngỡ như là mẹ “Thăm lại vườn xưa không còn mẹ/ Mấy hàng cau cũ cỏ hoang đầy/ Gốc mít cỗi cằn trong nỗi nhớ/ Tưởng chừng bóng mẹ vẫn quanh đây” (Về lại vườn xưa).

Như đã nói ở trên, Mai Hữu Phước đã“sống kỹ”với cuộc đời, nhận ra quy luật của vô thường. “Lợi danh rồi cũng phù vân cả/ Chỉ có hương đời cứ mãi xanh/ Mai sau tất cả phai mờ hết/ Còn nhớ nhau chăng một chút tình” (Chút tình). Đó là những câu thơ đốn ngộ.

Mai Hữu Phước là bác sĩ, thạc sĩ y khoa; thơ với ông chỉ là “cái nghiệp” trời hành. Cũng hơi “lạ” là trong thơ ông không có phòng khám, bệnh nhân, chỉ có những hình tượng, biểu tượng của “bức tranh hiện thực” rong ruổi cùng ông qua năm tháng. Những cuộc đi, rong ruổi trong Nam, ngoài Bắc (kể cả ở nước ngoài) của ông đều được ủ men, chưng cất trong tâm hồn mà thành tác phẩm. Với người đọc, sẽ không biết được “dung nhan” vui buồn, yêu thương, nhung nhớ và hy vọng, cách “lập ngôn” của Mai Hữu Phước về cái đẹp, nếu không đọc hết thơ ông!

N.Đ.H