Thơ Nguyễn Đông Nhật
Nguyễn Đông Nhật sinh năm 1950 tại Giao Thủy, Đại Lộc, Quảng Nam. Thơ in từ năm 1969.
Từ sau 1975, đã in hơn 1.000 bài thơ trên khoảng 80 tờ báo, tạp chí & 40 tuyển tập. Xuất bản 7 tập thơ và biên soạn nhiều tập sách.
Nguyễn Đông Nhật quan niệm: Làm thơ là nói theo cách riêng, trong cố gắng vươn tới sự giản dị; không tách rời trách nhiệm công dân, đồng thời phải hướng đến sự khám phá những vận động vô hạn của tâm thức.
Một mình trăng
Ngồi một mình nghe khuya dần im
Trăng sáng như chưa bao giờ sáng thế
Thềm ngói cũ nghiêng chìm mái sẫm
Khuất nửa lòng riêng vọng tiếng câm.
Ly rượu tối một mình không uống
Bóng đêm trầm soi ánh thủy tinh
Những gì không nói đang xao động
Trăng kẽ quanh bàn ngân bóng xa.
Còn một mình sau cuộc vui tan
Nghe gió thổi tháng ngày xa lạ
Những thế hệ đi qua im lặng
Trang sách mờ rung đẫm ướt trăng.
Chiếc bóng ngồi lặng một mình đêm
Ngoài thời đại thét gào cơ khí
Ôi nửa đời vầng trăng còn tỏ
hỏi ai từng soi mặt hư vô.
Một mình bóng lẫn mùi hương không tàn
Là phai nhạt sắc màu ý hệ
Trong đời rộng lau khô dòng lệ
Hơi gió xanh động cuối trăng tà.
Vươn tới sự bất động(*)
Trên khuôn mặt nhìn nghiêng của em
ngọn lửa khổ đau đã tắt. Một hơi ấm xa lạ
len vào máu tôi, như giọng thầm
kêu gọi mùa giông tố bình yên
nơi con người thực phải đi đến.
Cao hơn nhiều bệ thờ
chiếc ghế em ngồi, treo bên ngoài ký ức
chiếc ghế dính bùn, trang hoàng bằng
cái chết
bằng những mảnh sống lung linh.
Tôi ngước nhìn. Thăm thẳm đôi mắt kia
tỏa bóng như cuộc đời quặn thắt.
Thánh nữ là em, người bình thường
dường như gần - xa một hơi thở.
Hãy lắng biển gào trong tiếng trúc tơ
và an lặng của thời gian náo động.
Bóng chiều thẫm. Đôi tay em trắng mờ
bơi qua đêm tối đang đặc lại.
Tôi nhìn theo. Có thể bắt kịp không?
Gò má ai cao lên con sóng lớn.
(*) mượn chữ A-súc-bệ Phật, một vị Phật tượng trưng cho trí nhận biết bản chất sự vật một cách khách quan.
Cột mốc thời gian
Buổi sáng ấy còn để lại trong tôi mùi vị lạnh trơ chiếc ghế đá, tiếng động mơ hồ dòng người - xe dưới kia, hơi ấm gần - xa của em và khoảng cách những mười năm không thể lấp đầy dù tôi cố mở một lối đi tới. Tôi đã từ giã em như thế, lần thứ hai và có thể là lần cuối cùng. Cái đập chắn sóng tôi xây nên chở che trái tim mình trở nên vô dụng và giờ đây và mãi lâu dài tôi chỉ có thể hàn gắn bằng sự tan vỡ chầm chậm, xa trong những ngõ khuất.
Em bước vào ánh sáng. Ánh sáng cô đặc của thành lũy em tự dựng nên, rào giậu chính em trong ước mơ thánh tẩy tâm hồn trước bao thanh âm ngày thường, trong cố gắng tự chứng thực bản thân cùng sự thanh sạch hiếm hoi giữa trần gian.
Tôi không biết những gì em đã gặp. Tôi mong em bình yên trong kiếm tìm kia. Nhưng có phải tôi nghe nhịp tim em ngơ ngác trên con đường gió, âm nhạc mơ hồ và ánh mờ của hạnh phúc còn hứa hẹn?
Buổi sáng ấy đào sâu giữa chúng ta sự xa cách đời đời nhưng lạ kỳ thay, trong bóng tối ẩn khuất của niềm vui vừa rơi mất, tôi lại tình cờ nắm được đầu mối sợi dây của Thésée khi chàng bước vào mê cung. Và tôi chợt hiểu con quái vật kia không gì khác hơn là chính cái bóng mà chàng cõng theo bao nhiêu năm tháng. Tôi tin em cũng đã cầm trong tay sợi dây ấy, sợi dây mà mỗi con người phải tìm thấy cho mình khi bước vào ánh sáng. Cũng là bước vào bóng tối.
Buổi sáng ấy đã tắt. Trong tôi và trong em. Như một niềm an ủi cay đắng mà dịu dàng trên con đường của mỗi chúng ta.
Để một ngày nào dưới bóng những đám mây nơi bầu trời khác, cả tôi và em đều biết trong nhiều ngày cũ, chúng ta đã từng có và từng vượt qua buổi sáng ấy.
Thơ dặn riêng
Anh có danh hay anh có thơ
Câu hỏi ỡm ờ, có phải?
Thế sự làm người ta yếu đuối
Cây thập tự nặng hơn thời đấng Ky-tô.
Anh viết dăm bài, anh viết ngàn trang.
Hay dở khen chê cái vòng luẩn quẩn.
Thơ là thơ, dẫu nghiệp hay nghề
Đều khó như giản đơn mọi việc.
Nhiều định nghĩa thường xuyên biến dạng.
Cái bóng của anh không thể ngồi yên lặng.
Sau khi tan vào những gì xa lạ
Anh thấy gương mặt mình trên
vách tường câm.
Bi kịch hay hài kịch đều phải dàn dựng
Bằng tất cả máu của đời anh.
Thiêu rụi hết những cánh rừng năm tháng
Còn chút xá - lợi - thơ hay chỉ tro tàn?
N.Đ.N