Sáng mãi sao Khuê buổi sớm

05.05.2009

Sáng mãi sao Khuê buổi sớm

(Đọc Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi)
 
Chúng ta đều biết Nguyễn Trãi là vị anh hùng cứu nước nổi tiếng mưu lược trong kháng chiến chống quân Minh. Chẳng những là tác giả "Bình Ngô đại cáo” bất hủ, ông còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị nói lên tư tưởng lớn của ông về các mặt triết học, chính trị, quân sự và nhiều thơ văn hết sức quí báu. Cho đến nay, ông vẫn được suy tôn là nhà tư tưởng vượt thời đại, nêu cao ý chí "tạo phúc cho dân” với hoài bão kinh bang tế thế khiến cho "khắp thôn cùng xóm vắng không còn có tiếng hờn giận oán sầu". Nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông, tổ chức UNESCO đã long trọng vinh danh Nguyễn Trãi là một trong những danh nhân văn hóa của thế giới.
 
Ngoài Quốc Âm thi tập, ông còn có tập thơ chữ Hán mang tên Ức Trai thi tập. Dựa theo cách sắp xếp của dịch giả Đào Duy Anh, Ức Trai thi tập có thể gồm 4 phần như sau :
 

1- Thơ làm trong khi chưa thành công : 29 bài, trong đó có 12 bài làm trong thời sang Trung Quốc.

2- Thơ làm sau khi thành công, làm quan ở triều đình (31 bài)

3- Thơ tỏ ý chán nản muốn về nghỉ (22 bài)

4- Thơ làm khi về ở ẩn tại Côn Sơn (17 bài)

A- THƠ LÀM KHI CHƯA THÀNH CÔNG:

Bài "Qua biển" có mấy câu đầy khí phách :

"…Nghĩa khí quét mù muốn lớp dẹp

Tráng hoài nổi gió nửa buồm dong

Lá thuyền mừng tớ chầu trời trẩy

Thẳng cưỡi kình nghê vượt biển Đông"

Bài "Đêm đậu thuyền ở Bình-nam" cho thấy tâm trạng không được như ý:

" Hẹn với hồ non đành phụ chí

Trôi xuôi năm tháng uổng bình sinh"

Bài "Giữa đường gửi bạn" lại khẳng định quyết tâm của mình :

"…Nam châu bạn cũ như ai hỏi

Nhớ bảo rằng ta vẫn nhất tâm."

Bài "Ngẫu nhiên làm trong thuyền" lại nêu bật " tráng chí bình sinh" .

"Cảnh lạ thường kinh năm tháng mới

Thuyền con còn nhớ nước non nhà

Bốn phương tráng chí bình sinh có

Khôn chối "mệt rồi" để chẳng ra

Bài "Sau loạn cảm tác" nói lên niềm xót xa trước cảnh nhân dân rên siết vì chiến tranh, xót xa về thân phận của bản thân mình.

"…Thần châu từ thuở nổi can qua

Rên siết muôn dân đến thế mà

Ba chục năm trời danh tiếng hão

Quay đầu muôn việc giấc Nam Kha"

Bài "Gửi bạn" cho thấy nỗi khổ tâm của kẻ sĩ :

"…Tấc lưỡi hãy còn ăn nói được

Chiếc thân vẫn khó, xót thương thôi"

"…Đọc sách mười năm mà kiết xác,

Ăn toàn rau muống, chẳng chiên ngồi"

Bài "Đóng cửa biển" lại cho thấy chỗ dựa chủ yếu không phải ở thế hiểm mà chính là ở lòng dân :

"Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển

Khóa sông xích sắt cũng vầy thôi

Lật thuyền mới rõ dân như nước

Cậy hiểm khôn xoay, mệnh ở trời"

Bài "Đêm đậu thuyền ở Lâm Cảng" kết thúc bằng mấy câu :

"…Một đời quen nết chưa chừa được

Xiêu giạt nào hao khí thiếu niên"

Bài "Đêm đậu thuyền ở cửa biển" lại kết thúc bằng lời khẳng định ý chí của mình:

"Lo trước bình sinh ôm một chí

Thức chong ngồi lạnh chỉ ôm chiên"

B- THƠ LÀM SAU KHI THÀNH CÔNG - LÀM QUAN Ở TRIỀU :

"Xem duyệt thủy trận" nói lên lòng yêu chuộng hoà bình :

"Muôn giáp khoe oai tì hổ dữ

Nghìn thuyền bày trận quán nga nhanh

Lòng vua muốn để dân ngơi nghỉ

Văn trị nên xây dựng thái bình"

Bài "Mừng về Lam Sơn” lại nêu cao đạo lý "nhân nghĩa" tác giả từng đề xướng :

"…Quyền mưu vốn dĩ để trừ gian

Nhân nghĩa giữ gìn thế nước an

Ấm chiếu nhà nho nơi quán các

Nhàn gươm ông tướng chốn biên quan"

…Quái Bắc đã tiêu, kình ngạc lặng

Nam châu muôn thuở vẹn giang san"

Bài thứ tư trong loạt bài thơ "Mừng thắng trận" nêu cao tâm lý "lo trước" :

"…Đường xe khe thẳm phiền loan giá

Trướng ngọc mưu thần trổ hổ thao

Bốn biển như nay yên lặng cả

Cho hay "hậu dật" bởi tiên lao"

Bài "Ngẫu nhiên làm" coi tâm lý "lo trước”, "lo xa" của mình như căn bệnh "vu khoát", có nghĩa là bệnh "viển vông":

"…Vu khoát đời ta mang bệnh ấy

Không phương chữa, lão nặng thêm ra"

Bài 2 "Ngẫu nhiên làm trong thuyền" đầy thi hứng dạt dào

"…Góc biển, bên trời mặc ý chơi

Đến đâu cũng phóng bút ngâm hoài

Ông chài hồ rộng ba câu hát

Chú mục trăng cao một tiếng còi

Đêm vắng tựa không xem tạo biển

Gió thu thừa hứng cưỡi kình bơi

Lâng lâng muôn việc khi quên hết

Lẽ nhiệm đành nhường chén rượu thôi"

Bài "Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử” ngân vang hào khí ngợi ca vị anh hùng chiến thắng quân Nguyên

"…Trên non Yên Tử, chòm cao ngất

Trời mới canh năm đã sáng tinh

Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả

Nói cười người ở giữa mây xanh

Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa

Bao dải tua châu đá rũ mành

Dấu cũ Nhân Tôn còn vẫn đấy

Trùng đồng tháy giữa ánh quang minh"

Bài "Vân Đồn" nêu cao một địa danh lịch sử oai hùng :

"…Một vùng biếc sẫm gương lồng bóng

Muôn hộc xanh um tóc mượt màu

Non biển gạn trong tay vũ trụ

Tim gan chẳng núng sức ba đào"

Bài "Cửa Bạch Đằng" còn in bóng chiến công xưa lừng lẫy :

"…Chòm chòm núi đá kình rời đoạn

Lớp lớp bờ lau kiếm nát chồng

Quan ải trăm, hai, trời đặt hiểm

Anh hùng sự nghiệp dắt nên công"

Bài "Tĩnh yên chiều đứng trông"dạt dào thi hứng:

"…Mưa phùn khói lạt vá chiều mờ

Sắc nước màu trời ngó lửng lơ

Muôn thuở càn khôn tươi cảnh trí

Biển non vì tớ vẽ nên thơ"

Bài "Than oan" bộc lộ nỗi đau phải sa vòng tù ngục

"…Năm chục năm chìm nổi với đời

Non quê khe suối phụ duyên rồi

Danh hư họa thực nên cười quá

Ghét lũ trung côi đáng xót thôi

Khó tránh số mình là bởi mệnh

Chưa tiêu đạo thánh, ấy do trời

Trong lao lung ấy cam mang nhục

Cửa khuyết nhờ đâu đạt một lời"

C- THƠ TỎ Ý CHÁN NẢN MUỐN VỀ NGHỈ

Bài "Ngẫu nhiên làm" tỏ ý ngao ngán sự đời:

"…Cuộc đời một giấc mộng kê thôi

Tỉnh lại muôn vàn, thấy hão rồi

Hiện chỉ ưa vào trong núi ở

Lều tranh đọc sách cạnh hoa chơi"

Bài "Đề chùa Đông Sơn" thầm tiếc ba mươi năm hao phí

"…Một dạ quân thân vướng vít hoài

Thẹn rừng tủi suối ước xưa sai

Ba mươi năm lẻ trong trần mộng

Và tiếng chim kêu: tỉnh lại thôi"

Bài "Họa vần ông người làng gởi cho các đồng chí" nói lên tâm trạng nguội lòng việc thế :

"…Nguội lòng việc thế đầu ra bạc

Nhờ rượu thân suy mặt ửng hồng

Thấy sáng phượng kia sà xuống hót

Tránh tên hồng nọ phải xa tung"

Bài "Nhờ người vẽ tranh Côn Sơn" thổ lộ tâm trạng tha thiết nhớ Côn Sơn:

"…Rừng suối nửa đời phải lãng xao

Gia hương sau loạn phí chiêm bao

Tùng reo bậc đá ai nghe đấy

Mai chiếu bên khe thú vịnh đâu

Vắng vẻ yên hà gan ruột nẫu

Não nùng vượn hạc, ý tình đau

Toan nhờ thiên hạ cao tay vẽ

Nhớ vẽ lòng ra cả thế nào"

Bài "Đề canh ẩn đường của Từ Trọng phủ” cho thấy nỗi lòng muốn về ở ẩn:

"…Tùng cúc hãy còn, về chửa muộn

Lợi danh không mãng, ẩn cho an

Than ôi mũ áo lầm ta mãi

Vốn khách câu thanh với cuốc nhàn"

Bài "Hứng chơi" (bài 2) thổ lộ nỗi niềm tâm sự :

"…Thanh chức mười năm băng nậm ngọc

Đơn tâm một mảnh lửa lò tiên

Ưu du lại bảo ta ưa thích

Cúi ngửa theo người, chịu chẳng nên"

Bài "Đáp bạn gửi cho" trải lòng tạ bạn:

"…Lươn lướt rồng phi, thuyền vạn hộc

Vững vàng mà vẫn phải lo nhào

Việc cam lệ ứa khôn bàn giỏi

Vận gặp bước cùng há trí cao

Yên các xa xôi, danh bấp bềnh

Gia sơn vui thú, giấc chiêm bao

Án cần tạ bạn đồng hương đấy

Tạm lấy tân thi tả nỗi sầu”

D- THƠ LÀM TRONG THỜI GIAN Ở ẨN Ở CÔN SƠN

Bài "Mộng ở trong núi" thanh thoát làm sao !

"Thanh Hư đầy động hàng ngàn trúc

Phơi phới suối bay rũ kính trong

Trăng sáng đêm qua trời tựa nước

Chiêm bao cưỡi hạc tới tiên cung"

"Cuối xuân tức cảnh" càng đầy cảm hứng

"Trọn ngày thong thả khép phòng văn

Khách tục bên ngoài chẳng bén chân

Khắc khoải quyên kêu xuân đã muộn

Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân"

"Bến đò xuân đầu trại" càng dạt dào cảm xúc:

“Cỏ xuân đầu bến biếc như mây

Thêm lại mưa xuân trời nước đầy

Đường nội vắng teo, hành khách ít

Thuyền côi gác bãi ngủ thâu ngày" .

Thơ tứ tuyệt của tác giả gọn ghẽ mà súc tích. Bài "Đề chơi" quả dồi dào thi liệu:

"Gặp gì nhàn hạ chẳng ngâm nga

Ngoài tục phong lưu tự một nhà

Núi biếc nghìn trùng phô ngọc đấy

Nước trong muôn khoảnh trải gương ra

Sáo đàn rộn rịp, chim vang rú

Gấm vóc tưng bừng giậu trổ hoa.

Thi liệu một thì đầy trước mắt

Thi ông, người thế ai hơn ta ?"

"Hứng làm ngay" bất chợt mà giàu thi tứ:

"…Tan mưa sắc núi thơ đầy mắt

Vơi lụt ánh sông tục sạch lòng

Khách đến cổng ngoài, chim ríu rít

Thu sâu sân rụng lá lung tung"

Bài "Hứng chiều” man mác nỗi buồn tâm sự:

"Nhà quạnh xóm cùng khổ vắng teo

Khăn thâm gậy trúc dạo quanh chiều

Bãi thông bóng xế cây đeo ráng

Đường nội người thưa, nước ngập kiều

Kim cổ không cùng, sông bát ngát

Anh hùng mang hận, lá veo veo

Trở về một chắc lan can tựa

Lạnh lẽo gương thiềm khoảng biếc treo"

"Chùa Tiên Du” là một bài thơ ngũ ngôn ngắn gọn mà đầy ý vị :

"Bóng xế thuyền con buộc

Vội lên lễ phật đài

Mây về giường sãi lạnh

Hoa rụng suối hương trôi

Chiều tối vượn kêu rộn

Núi quang bóng trúc dài

Ở trong dường có ý

Muốn nói bỗng quên rồi"

Và phải chăng "Bài ca Côn Sơn" là bài thơ tâm đắc nhất của tác giả bởi thắm ý đượm tình với nước non quê cũ: Bài thơ gồm hai phần chính, phần đầu cho thấy Côn Sơn có đủ thứ khe, đá, thông, trúc có thể làm đàn cầm, chiếu thảm, nơi ngơi nghỉ, chốn ngâm nga cho tác giả, phần sau là lời tác giả kêu gọi :

"Người sao chửa về đi

Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc

Muôn chung chín đỉnh có làm gì

Nước lã cơm rau miền tri túc

…Người đời trong trăm năm

Rút cuộc như thảo mộc

Vui buồn lo sướng đổi thay nhau

Một tươi một héo vẫn tương tục

Cồn hoang lầu đẹp cũng ngẫu nhiên

Chết rồi ai vinh với ai nhục ?

Nhân gian nếu có bọn Sào Do

Khuyên hãy nghe ta ca một khúc

Về hình thức, bài thơ khá tự do phóng khoáng khác hẳn các thể thơ trước. Hòa mình vào thiên nhiên phải chăng vừa thuận đạo tự nhiên, vừa hợp lẽ sống tự do tự tại, xa lánh cuộc đời trần tục, tìm đến chốn ẩn cư thanh cao ? Bài thơ thanh thoát như một hồn thơ được giải phóng khỏi bao nhiêu ràng buộc đời thường, xứng đáng là bài thơ kết thúc có hậu cho "Ức trai thi tập".
 

HỒ HOÀNG THANH