Truyền hình và khán giả ngày nay

04.06.2025
Huỳnh Hùng

Truyền hình và khán giả ngày nay

Ảnh minh họa.INTERNET

Sự ra đời của internet, mạng xã hội và gần đây là trí tuệ nhân tạo (AI), các loại hình báo chí truyền thống, trong đó có truyền hình, đối diện với nhiều thách thức lớn. Làm sao để níu kéo được khán giả là một nhiệm vụ không hề dễ dàng cho những người làm truyền hình hiện nay.

Báo chí nói chung và truyền hình nói riêng, trước hết phải hướng đến công chúng, đến khán giả - những người tiếp nhận thông tin, lan tỏa thông điệp, qua đó giúp nhà đài hoàn thành nhiệm vụ chính trị và chức năng báo chí. Khi có đông đảo khán giả xem chương trình thì đài truyền hình sẽ có nhiều lợi thế, từ hoàn thành nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền đến tăng doanh thu quảng cáo, dịch vụ để tái đầu tư sản xuất, cải thiện đời sống cán bộ, phóng viên, người lao động. Ngược lại, khi khán giả giảm sút thì sự tồn tại của truyền hình sẽ chông chênh. Người làm truyền hình mà không quan tâm đến khán giả là thiếu trách nhiệm, gây lãng phí về tiền bạc của Nhà nước và nhân dân.

Ngày nay, truyền hình đang đối mặt với sự cạnh tranh khán giả mạnh mẽ, dữ dội, thậm chí khốc liệt, có tính chất sống còn.

Trước hết là cạnh tranh với chính các đài truyền hình. Trước đây, khán giả ít có sự lựa chọn, chủ yếu là xem các kênh của Đài truyền hình Việt Nam (VTV) hoặc xem kênh truyền hình địa phương. Lúc đó, một bản tin thời sự, một chương trình vừa phát sóng tối qua thì sáng hôm sau ở các quán ăn, quán cà phê có nhiều người nhắc lại, bàn tán, trao đổi. Nay, với sự ra đời của các phương thức truyền dẫn hiện đại như truyền hình cáp, truyền số mặt đất, số vệ tinh, truyền hình giao thức internet… người xem có đến hàng chục, hàng trăm kênh truyền hình trong và ngoài nước để lựa chọn. Với chiếc remote trên tay, khán giả có thể bấm chuyển kênh bất cứ lúc nào nếu chương trình đang xem chưa vừa ý, chưa hấp dẫn.

Ngày nay, truyền hình không chỉ cạnh tranh với các đài bạn, mà còn cạnh tranh với báo điện tử. Báo điện tử có đặc điểm là truyền tải thông tin khá nhanh. Các sự kiện vừa mới xảy ra, thậm chí đang xảy ra, liền được các báo điện tử cập nhật và phát hành ngay, trước cả thông tin truyền hình - trừ các chương trình được truyền hình trực tiếp. Một số báo điện tử còn minh họa bằng các video clip ngắn nên thêm sinh động, thuyết phục.

Đặc biệt là cạnh tranh với mạng xã hội, nhất là Facebook, TikTok, YouTube, Instagram, Twitter… Thực tế không thể phủ nhận rằng, các mạng xã hội này làm đã làm thay đổi nhu cầu, sở thích, tâm lý, thói quen của công chúng báo chí truyền thống nói chung và truyền hình nói riêng. Theo thống kê, Việt Nam là một trong những nước đứng đầu thế giới về tỉ lệ người dùng internet và mạng xã hội. Hiện nay, nước ta có 72 triệu người dùng mạng xã hội, chiếm 73% dân số. Đặc điểm của mạng xã hội là thông tin được lan toả rất rộng và cực nhanh. Rộng vì có phạm vi lan tỏa xuyên biên giới quốc gia, nhanh vì chỉ mỗi một chủ tài khoản mạng xã hội có thể thao tác như một cơ quan báo chí, từ viết tin, biên tập, phát hành với thời gian tính bằng phút, bằng giây. Mỗi chủ tài khoản mạng xã hội tự chịu trách nhiệm về nội dung, không phải qua khâu biên tập, kiểm duyệt nào như cơ quan báo chí. Với sự xuất hiện của mạng xã hội, thông tin từ báo chí truyền thống bị chìm khuất giữa rừng thông tin trên mạng xã hội. Chỉ có điều khác biệt là, thông tin trên mạng xã hội rất nhanh nhưng một số thiếu được kiểm chứng nên độ tin cậy không cao, trong khi thông tin trên báo chí truyền thống, trong đó có truyền hình, tuy chậm và chắc, tuyệt đại đa số thông tin được kiểm chứng nên tính xác thực rất cao.

Từ góc nhìn thông tin - truyền thông, sự ra đời của internet và mạng xã hội là một cuộc cách mạng to lớn, tác động mạnh mẽ đến toàn thế giới. Những nền tảng này đã làm biến đổi sâu sắc đời sống báo chí, thay đổi căn bản quá trình sản xuất, phát hành, truyền dẫn và tiếp nhận thông tin báo chí. Báo giấy giảm dần số lượng phát hành, có tờ phát hành cầm chừng, lay lắt. Phần nhiều khán giả quay lưng với các chương trình truyền hình truyền thống, biểu hiện rõ nhất là sản phẩm quảng cáo trên truyền hình dịch chuyển phần lớn qua mạng xã hội, làm cho không ít đài lao đao về nguồn thu dịch vụ, phải giảm sản xuất chương trình và đầu tư thiết bị, một số đài phải nợ lương, nợ nhuật bút của cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên nhiều tháng liên tục.

Trong bối cảnh hiện nay, báo chí nói chung, truyền hình nói riêng khó mà cạnh tranh sòng phẳng với mạng xã hội, bởi có nỗ lực hết sức thì cũng chẳng thể nào vượt lên trên được, vì báo chí do Nhà nước quản lý, hoạt động có định hướng, phải tuân thủ các quy trình khá nghiêm ngặt về sản xuất, phát hành, phổ biến chương trình, tác phẩm. Vấn đề đặt ra của ngành truyền hình ngày nay là phải tìm cách níu giữ khán giả được chừng nào quý chừng đó.

Tại thành phố Đà Nẵng hiện có kênh truyền hình quốc  gia  VTV8 và Đài Phát thanh - Truyền hình Đà Nẵng (Danang TV). Hai nhà đài này có độ chênh lệch  đáng  kể  về  trình độ phát triển, do khả năng đầu tư và chất lượng nguồn nhân lực. Mặc dù có nhiều nỗ lực đáng kể qua 50 năm hình thành và phát triển (1975-2025), thực tế là Đài Phát thanh - Truyền hình thành phố đang đứng trước rất nhiều khó khăn. Đó là chương trình của đài chỉ tập trung cho bề nổi là tin tức thời sự, một số chuyên đề chính luận, một số ít  chương  trình khoa giáo, thiếu nhi, nhưng thiếu đầu tư các chương trình có quy mô lớn và chiều sâu như phim tài liệu, sân khấu truyền hình, chương trình ca múa nhạc, tạp kỹ, phim truyện… Tỉ lệ chương trình do đài tự sản xuất còn quá thấp, lại căng ra phát trên hai kênh nên buộc phải phát đi phát lại rất nhiều lần, dễ tạo nên cảm giác nhàm chán. Do nguồn kinh phí hạn chế nên rất ít mua được chương trình mới có chất lượng cao. Phát lại các chương trình giải trí cũ thì chất lượng kỹ thuật kém, lại dễ vi phạm luật bản quyền. Chất lượng nguồn nhân lực còn yếu, thiếu những phóng viên, kỹ thuật viên tâm huyết, thực sự yêu nghề. Doanh thu quảng cáo - dịch vụ quá thấp nên đài tồn tại và phát triển chủ yếu nhờ khoản kinh phí đặt hàng của Nhà nước cùng kinh phí tuyên truyền của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn - mà thực tế cũng là nguồn kinh phí của Nhà nước.

Để nâng cao được hiệu quả công tác tuyên truyền, giữ được khán giả, các đài truyền hình địa phương nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng, cần áp dụng một số giải pháp cụ thể sau đây:

Một là, tìm cách nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu, thói quen, khả năng tiếp nhận thông tin của khán giả.

Trước sự bùng nổ của cách mạng truyền thông, với sự ra đời của internet và mạng xã hội, khán giả có quá nhiều sự lựa chọn để xem chương trình mình yêu thích. Do vậy, nhà đài phải biết khán giả muốn gì, cần gì, thích gì để có hướng điều chỉnh nội dung phù hợp.

Tại Liên hoan truyền hình toàn quốc lần thứ 42 tổ chức tại Bình Định vào tháng 3 năm 2025, Đài Truyền hình Việt Nam công bố Hệ thống các chỉ số đo lường khán giả VTV-VTV Ratings. Hệ thống này có khả năng cung cấp dữ liệu người xem truyền trình một cách công khai, minh bạch, chính xác. Không chỉ là câu chuyện về dữ liệu, hệ thống này còn thể hiện một tư duy đổi mới, một bước chuyển mình cần thiết trong bối cảnh truyền thông hiện đại. Các đài truyền hình địa phương, trong đó có Đà Nẵng, nên khẩn trương hợp tác, kết nối với VTV để sử dụng công nghệ đo lường khán giả tiên tiến này nhằm điều chỉnh việc sản xuất và phát sóng. Những chương trình không còn thu hút sự quan tâm của công chúng cần được xem xét, thay thế kịp thời bằng nội dung phù hợp hơn, nhằm tối ưu hiệu quả truyền thông và tránh lãng phí nguồn lực.

Hai là, đẩy mạnh hoạt động chuyển đổi số, tích hợp “sóng” và “số”.

Chuyển đổi số là yêu cầu khách quan, tất yếu của các cơ quan báo chí trong thời đại ngày nay. Sản phẩm của đài truyền hình không chỉ dừng lại ở việc tiếp cận khán giả qua kênh truyền thống, mà cần sử dụng các công cụ khác trên nền tảng internet để truyền tải nội dung chương trình đến khán giả một cách nhanh chóng và rộng rãi nhất. Có thể nói, chuyển đổi số, thực hiện nội dung số giúp cho chương trình truyền hình được chắp đôi cánh thần tiên để vút bay cao, bay xa. Việc Đài Phát thanh - Truyền hình Đà Nẵng vừa thành lập phòng Nội dung số là bước đi rất phù hợp trước xu thế truyền thông ngày nay.

Ba là, tăng cường bản sắc nội dung và hình thức thể hiện, kết hợp với tăng thời lượng chương trình tự sản xuất.

Trong bối cảnh sóng truyền hình đã xuyên biên giới hành chính các địa phương trong nước và xuyên cả biên giới quốc gia, người xem tiếp cận quá nhiều nội dung thì họ sẽ cần những chương trình có sắc thái riêng, mang tính địa phương, vùng miền. Các sự kiện diễn ra, đất và người một vùng quê, các chương trình sân khấu, nghệ thuật biểu diễn với các câu chuyện và nghệ thuật thể hiện đậm đà chất liệu văn hoá vùng miền, văn hoá dân tộc sẽ dễ đi vào lòng người.

Ngoài ra, nếu ở một đài truyền hình mà có tỉ lệ chương trình do đài tự sản xuất quá thấp thì sẽ gây lãng phí hạ tầng phát sóng, lãng phí tiền thuê dịch vụ truyền dẫn, đồng thời làm cho nội dung đơn điệu, ít có khán giả theo dõi. Chính phủ đã có văn bản quy định, mỗi kênh truyền hình thiết yếu phục vụ nhiệm vụ chính trị ở địa phương thì tỉ lệ chương trình tự sản xuất để phát sóng lần đầu ít nhất phải đạt 30%. Ở Đà Nẵng, tỉ lệ chương trình tự sản xuất quá thấp trong khi phải phát sóng hai kênh truyền hình 24h/ngày. Nếu đã nỗ lực nhưng vẫn không đảm bảo tỉ lệ chương trình tự sản xuất để phát sóng thì có thể cắt giảm thời lượng phát sóng. Không nhất thiết phải phát cả hai kênh truyền hình, không nhất thiết phải phát sóng 24h/ngày.

Bốn là, kết hợp sản xuất chương trình phát sóng vừa có bề rộng vừa có chiều sâu.

Các chương trình có độ dài và có chiều sâu như phim tài liệu, sân khấu truyền hình, phim ca nhạc, tạp kỹ, phim truyện truyền hình thì không lệ thuộc tính thời sự, chỉ đầu tư một lần nhưng có thể phát sóng nhiều lần. Do vậy, mỗi chương trình có chiều sâu tuy được đầu tư tương đối lớn để sản xuất nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả kinh tế.

Trong các chương trình có chiều sâu, cần đặc biệt quan tâm đến việc sản xuất phim tài liệu - thể loại phim phi hư cấu, phản ánh chân thực con người và sự kiện, đòi hỏi cao về tư tưởng và nghệ thuật. Phim tài liệu không chỉ cung cấp thông tin mà tác động đến suy nghĩ, cảm xúc của người xem. Nhiều bộ phim tài liệu hay, khi xem xong, khán giả bị ám ảnh với những nội dung, những chi tiết lay động lòng người.

Đất Quảng (bao gồm Quảng Nam và Đà Nẵng hiện nay) là vùng đất trong quá khứ và hiện tại có nhiều chất liệu, đề tài và nguồn cảm hứng để làm phim tài liệu. Trong nhiều năm qua, đội ngũ làm phim tài liệu của Đài Truyền hình Việt Nam, nhất là VTV8, và các Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Nam, Đà Nẵng đã làm rất nhiều phim tài liệu có giá trị, để lại dấu ấn. Tuy nhiên, với bề dày trầm tích văn hóa, là quê hương của nhiều danh nhân, chí sĩ, là nơi đi đầu trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống ngoại xâm của dân tộc và đang phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ đổi mới, vùng đất này vẫn còn nhiều dư địa để những người làm phim tiếp tục khai thác, sáng tạo.

Do Đất Quảng có nguồn đề  tài khá dồi dào, phong phú nên có thể làm phim tài liệu một tập hoặc nhiều tập (seri) theo kiểu “Mê Kông ký sự” của HTV hoặc “Tây Nguyên - miền mơ tưởng” của VTV8. Phim tài liệu nhiều tập vừa giúp khán giả có điều kiện tìm hiểu sâu về một vấn đề, một câu chuyện văn hoá, lịch sử, về chân dung một con người, một vùng đất, vừa đảm bảo có thêm chương trình mang tính địa phương, vùng miền để phát sóng. Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Nam từng sản xuất seri phim tài liệu “Mẹ Thu Bồn”, Đài Phát thanh - Truyền hình Đà Nẵng cũng từng có seri phim “Những dòng sông Đà Nẵng”.

Năm là, thiết kế và thực hiện nhiều chương trình truyền hình tương tác.

Truyền hình truyền thống vốn chủ yếu vận hành theo cơ chế một chiều, trong đó người xem chỉ đóng vai trò tiếp nhận thụ động nội dung do nhà đài sản xuất. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của báo chí hiện đại, internet và mạng xã hội, mô hình truyền thông một chiều dần trở nên lỗi thời, không còn đáp ứng được nhu cầu tiếp cận thông tin ngày càng cao và đa dạng của khán giả.

Truyền hình hiện đại, muốn sát thực tế, gần gũi hơn với cuộc sống thì phải thực hiện các hình thức tương tác.

Truyền hình tương tác được xem là xu thế của truyền hình hiện đại. Nhiều kênh truyền hình trong nước đã chọn truyền hình tương tác để trở thành chiến lược phát triển thương hiệu và là cơ sở để giành thị phần khán giả. Để làm được điều đó phải tạo điều kiện để khán giả trực tiếp tham gia ngay từ khâu sản xuất chương  trình.  Có thể khán giả được phỏng vấn ở hiện trường, trao đổi trong trường quay, có thể ngồi ở nhà được kết nối với trường quay để nói lên suy nghĩ, bày tỏ cảm xúc của mình. Khi được xuất hiện trên màn hình thì chẳng những người đó mà còn kéo theo gia đình, họ hàng, bạn bè, xóm giềng cùng xem chương trình. Thực tế cho thấy các kênh truyền hình VTV, HTV, Vĩnh Long… đã và đang triển khai thực hiện rất tốt các chương trình tương tác. Để có một mô hình truyền hình tương tác bền vững, ngoài ý tưởng chương trình thì yếu tố kỹ thuật, tốc độ đường truyền cao cũng phải được chú trọng đầu tư, sử dụng.

Sáu là, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ làm truyền hình chuyên nghiệp, năng động và sáng tạo.

Để truyền hình tạo được nhiều chương trình chất lượng cao, sinh động, hấp dẫn, vừa mang tính hiện đại vừa đậm đà bản sắc dân tộc, có màu sắc địa phương và vùng miền thì cần cả ba yếu tố: thiết bị - công nghệ hiện đại, cơ chế - chính sách thông thoáng và nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do truyền hình là một loại hình tổng hợp, sản phẩm - tác phẩm là của tập thể nên ngoài chuyên môn giỏi, sâu thì cần có sự hợp tác chặt chẽ, thường xuyên trong tất cả các khâu của quá trình sáng tạo, chế tác, truyền dẫn, phát sóng. Truyền hình chuyên nghiệp nhất thiết phải đặt nhiệm vụ phối hợp, đoàn kết lên vị trí hàng đầu.

Trong nhiều năm, truyền hình từng giữ vị thế nổi bật nhờ khả năng truyền tải thông tin sống động cả về hình ảnh lẫn âm thanh. Tuy nhiên, trước sự ra đời và phát triển như vũ bão của internet, mạng xã hội, và gần đây là sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo (AI), truyền hình đang đứng trước những thách thức to lớn. Các đề xuất nêu trên nhằm góp phần tìm kiếm những giải pháp khả thi để níu giữ khán giả, từ đó giúp truyền hình thích ứng, tồn tại và phát triển trong bối cảnh cách mạng truyền thông đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.

H.H