Thành phố Đà Nẵng trên Cửu đỉnh của Kinh thành Huế
Không phải ngẫu nhiên mà có người gọi chín đỉnh đồng/Cửu đỉnh - được vua Minh Mạng cho đúc vào năm Ất Mùi 1835 niên hiệu Minh Mạng thứ 16, hoàn thành vào năm Đinh Dậu 1837 niên hiệu Minh Mạng thứ 18 và đặt cố định ở sân Thế miếu của Kinh thành Huế - là bộ sách Đại Nam nhất thống chí bằng đồng nhằm khẳng định tầm nhìn xuyên Việt của người từng thể hiện tư duy vọng-hải-đài trên Ngũ Hành Sơn. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà từ năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1426/QĐ-TTg công nhận Cửu đỉnh là Bảo vật quốc gia; rồi đến năm 2024 vừa qua, những hình ảnh đúc nổi trên Cửu đỉnh lại được UNESCO ghi danh là Di sản Tư liệu thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương (bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn được ghi danh trước đó hai năm). Và thành phố Đà Nẵng sau-hợp-nhất không chỉ có cơ duyên với Cửu đỉnh khi bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn được nằm cùng trong danh mục Di sản Tư liệu thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương mà còn có cơ duyên với Cửu đỉnh ngay khi chín đỉnh đồng này vừa được chế tác: Có ít nhất hai trong chín đỉnh đồng/Cửu đỉnh đã trực tiếp vinh danh những hình ảnh tự nhiên và nhân tạo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng sau-hợp-nhất.
Trước hết là Nhân đỉnh (đỉnh được đặt tên theo thụy hiệu của Thánh tổ Nhân hoàng đế/vua Minh Mạng) - trên Nhân đỉnh có hình ảnh đúc nổi khắc chạm một sản vật tiến vua nổi tiếng của đất Quảng là cây Nam trân gọi nôm na là cây Lòn bon. Liên quan đến cây Nam trân trên Nhân đỉnh, thời tiền chiến có một nhà thơ mới người Đại Lộc - địa phương được xem là quê hương của nam trân/lòn bon - tên thật Nguyễn Học Sĩ đã lấy bút danh NamTrân (1907-1967) và được xem là “thi sĩ của xứ Huế” với tập thơ đầu tay xuất bản năm 1939 - Huế, Đẹp và Thơ. Có thể nói nhà thơ Nam Trân đã góp phần chuyển vẻ đẹp của nghệ thuật tạo hình trên Cửu đỉnh thành vẻ đẹp của nghệ thuật ngôn từ, chẳng hạn vẻ đẹp của núi Ngự Bình và của sông Hương trên Nhân đỉnh càng trở nên sinh động hơn trong thơ Nam Trân: Trên núi Ngự Bình/ Gió chiều hiu hắt/ Nhạc thông díu dắt/ Như khúc phong cầm (bài Trên núi Ngự); hay Ngự Bình như thấp như cao/ Nhạt màu mây móc đượm màu cỏ hoa/ Gió đờn thông dịp chim ca/ Hoạ vần thoang thoảng một vài khúc tiêu/ Hương Giang cô gái mỹ miều/ Tấm thân bay bướm láy chìu nhởn nhơ (bài Núi Ngự sông Hương)…
Dụ đỉnh.
Thứ hai là Dụ đỉnh - đã khắc chạm ba hình ảnh tự nhiên và nhân tạo ở đất Quảng. Đầu tiên có thể kể đến hình ảnh đúc nổi mang tên Đà Nẵng hải khẩu/cửa biển Đà Nẵng được khắc chạm trên Dụ đỉnh (cùng với hình ảnh đúc nổi mang tên Thuận An hải khẩu/cửa biển Thuận An được khắc chạm trên Nghị đỉnh và hình ảnh đúc nổi mang tên Cần Giờ hải khẩu/cửa biển Cần Giờ được khắc chạm trên Thuần đỉnh).
Dụ đỉnh.
Không phải ngẫu nhiên mà cửa biển Đà Nẵng là cửa biển được chọn khắc chạm trên Nhân đỉnh, bởi chính vua Minh Mạng đã ban hành chỉ dụ vào năm Ất Mùi 1835 niên hiệu Minh Mạng thứ 16 xác định Đà Nẵng hải khẩu là cửa biển ngoại giao và ngoại thương duy nhất của nước ta vào đầu triều Nguyễn: “… nay giặc giã đã yên, vốn không đáng lo, duy có lệ thuyền của Tây dương chỉ được vào đỗ ở bến Đà Nẵng, không được đến buôn bán ở các cửa biển khác”[1], và cũng chính vua Minh Mạng từng căn dặn Tân Tuần phủ Nam Ngãi Nguyễn Tri Phương vào năm Canh Tý 1840 niên hiệu Minh Mạng thứ 21 về tầm quan trọng của Đà Nẵng hải khẩu trong chiến lược phòng thủ đất nước đương thời: “Cửa bể Đà Nẵng là chỗ xung yếu ở vùng bể, vì thuyền bè đi lại là phải qua cửa bể ấy”[2].
Hình ảnh đúc nổi mang tên Đà Nẵng hải khẩu trên Dụ đỉnh.
Đà Nẵng hải khẩu từng xuất hiện lần đầu trong thư tịch cổ nước ta với công trình địa phương chí nhan đề Ô châu cận lục của Dương Văn An biên soạn năm Quý Sửu 1553 và ấn hành năm Ất Mão 1555. Mấy dòng ghi chép ngắn nói về đền thờ Tùng Giang ở cửa biển Đà Nẵng và cái chết có thể tránh khỏi của Phi vận tướng quân Nguyễn Phục trong cuộc nam chinh hồi cuối năm Canh Dần 1470 cũng là một Dụ đỉnh vinh danh cái hải khẩu nơi vua Lê Thánh Tông tạm dừng cuộc hải hành để chuẩn bị tiến công theo đường biển vào kinh thành Đồ Bàn của vương quốc Champa, cũng là nơi ông vua thi sĩ sáng tác bài thơ chữ Hán Hải Vân hải môn lữ thứ với hai câu thực nổi tiếng “Tam canh dạ tĩnh Đồng Long nguyệt/ Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền”, đồng thời là nơi vị minh quân không kịp sửa sai khi đã ra mệnh lệnh hành quyết một người… có công, vì đại cuộc mà cố tình làm sai quân pháp. Tuy nhiên đến năm Mậu Tý 1888, lần đầu tiên Đà Nẵng mới được xuất hiện trên bản đồ quốc gia và quốc tế với tư cách một đơn vị hành chính cấp tỉnh chứ không chỉ một cửa biển, mặc dù đi kèm theo đó là tên gọi tiếng Pháp Tourane và vết nhơ rất đậm về chủ quyền - trở thành nhượng địa của Pháp hơn sáu thập niên.
Hình ảnh đúc nổi mang tên Hải Vân quan trên Dụ đỉnh.
Hình ảnh đúc nổi mang tên Hải Vân quan/cửa ải Hải Vân - một Vọng Hải đài trên núi Hải Vân, di tích quốc gia do thành phố Đà Nẵng và thành phố Huế cùng chung tay quản lý - cũng được khắc chạm trên Dụ đỉnh (toàn bộ Cửu đỉnh có chín ngọn núi được khắc chạm trên từng đỉnh đồng nhưng hầu hết đều được khắc chạm với tư cách sơn/ngọn núi như Tản Viên sơn ở thành phố Hà Nội trên Thuần đỉnh; Thiên Tôn sơn ở tỉnh Thanh Hoá trên Cao đỉnh; Hồng sơn ở tỉnh Hà Tĩnh trên Anh đỉnh; Hoành sơn ở tỉnh Quảng Trị (sau hợp nhất) trên Huyền đỉnh; Ngự Bình sơn trên Nhân đỉnh, Thương sơn trên Chương đỉnh và Duệ sơn trên Tuyên đỉnh, cả ba đều ở thành phố Huế; Đại Lãnh sơn ở tỉnh Đắk Lắk sau (sau hợp nhất) trên Tuyên đỉnh; chỉ riêng núi Hải Vân được khắc chạm với tư cách quan/cửa ải: Hải Vân quan). Thực ra ngay từ năm Bính Tuất 1826 niên hiệu Minh Mạng thứ 7, vua Minh Mạng đã cho xây dựng Hải Vân quan thành công trình phòng thủ quân sự chủ yếu theo hướng tây-đông, sớm hơn mười năm trước khi cho khắc ba đại tự chữ Hán trên tảng đá sa thạch đặt ở ngọn Thuỷ sơn. Đáng chú ý là cả Đà Nẵng hải khẩu và Hải Vân quan đều vọng-hải, đều hướng ra Đông hải/biển Đông - thuộc chủ quyền của đất nước và được khắc chạm trang trọng trên Cao đỉnh. Như vậy với hình ảnh đúc nổi mang tên Đông hải trên Cao đỉnh, bóng dáng quần đảo Hoàng Sa của thành phố Đà Nẵng sau-hợp-nhất cũng đã hiện lên rất rõ - Và Hoàng Sa của tôi ơi/ Chân mây sáng quắc như lời thanh gươm (thơ Bùi Văn Tiếng).
Vĩnh Điện hà/sông Vĩnh Điện trên Dụ đỉnh.
Trên Dụ đỉnh còn khắc chạm hình ảnh đúc nổi mang tên một con sông đào nổi tiếng của thành phố Đà Nẵng (sau hợp nhất) là Vĩnh Điện hà/sông Vĩnh Điện - dài hơn 30km, lấy nước từ sông Thu Bồn ở địa phận làng Câu Nhí, đổ ra sông Cái rồi hòa vào sông Cẩm Lệ của hệ thống sông Vu Gia từ phía Tây chảy xuống, hợp thành sông Hàn đổ ra Đà Nẵng hải khẩu/cửa biển Đà Nẵng trước khi hoà chung vào dòng nước Đông hải/biển Đông. Chưa kể trên Cao đỉnh còn có hình ảnh đúc nổi mang tên con sông đào cũng rất nổi tiếng của tỉnh An Giang (sau hợp nhất) là Vĩnh Tế hà/sông Vĩnh Tế (đổ ra Tây hải/biển Tây - thuộc chủ quyền của đất nước và được khắc chạm trên Chương đỉnh) gắn với cuộc đời và sự nghiệp của một người Đà Nẵng xa quê: Nguyễn Văn Thoại làng An Hải.
Vĩnh Tế hà/sông Vĩnh Tế trên Cao đỉnh gắn với Nguyễn Văn Thoại người Đà Nẵng.
*
Trong quá trình phát triển “công nghiệp không khói”, người làm du lịch ở thành phố Đà Nẵng (sau hợp nhất) chắc chắn sẽ phải kết nối nhiều hơn nữa với các điểm đến tham quan ở Huế như chùa Thiên Mụ, như Phu Văn lâu, như các lăng vua Nguyễn và Đại Nội. Đã đưa du khách vào Đại Nội, không thể không giới thiệu với khách về Ngọ Môn với lầu Ngũ Phụng [rất dễ liên tưởng tới danh xưng Ngũ phụng tề phi], về điện Thái Hoà, về điện Cần Chánh… và đương nhiên là về Cửu đỉnh trên sân Thế miếu. Ngoài việc tạo điều kiện để du khách đến từ Đà Nẵng nắm được những thông tin khái quát nhất về chín đỉnh đồng độc bản vô giá này, qua đó cảm nhận rõ hơn vì sao Cửu đỉnh được ví như bộ sách Đại Nam nhất thống chí bằng đồng, cũng cần tạo điều kiện để họ tiếp cận với các hình ảnh đúc nổi liên quan đến Đà Nẵng như đã nêu trên./.
B.V.T
[1] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhị kỷ, quyển 160, tr.779.
[2] Quốc sử quán triều Nguyễn (2010), Minh Mệnh chính yếu, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, trang 1636-1637.