Nhìn lại văn học miền Trung nửa sau thế kỷ XX

04.06.2025
Phạm Phú Phong

Nhìn lại văn học miền Trung nửa sau thế kỷ XX

Trước tiên, có hai vấn đề cần xác định, một là phạm vi miền Trung ở đây tạm hiểu theo quan niệm truyền thống, gồm các tỉnh, thành dọc theo ven biển từ Thanh Hóa đến Bình Thuận; hai là, ở nửa sau thế kỷ XX bản thân tiến trình văn học miền Trung không có sự kiện nào đáng chú ý, nên phải lấy sự kiện lịch sử của đất nước làm cột mốc phân định, là từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỷ XX. Đó là nửa thế kỷ của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, rồi hòa bình, thống nhất và chuyển sang tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Sẽ không có sự quan sát, thẩm định và đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ, khách quan và cẩn trọng, mà chỉ là một góc nhìn chủ quan và có thể còn nhiều thiển cận, chúng tôi lướt nhìn dọc theo chiều dài lịch sử một cách khiêm tốn về ba phương diện: diện mạo hiện thực, đội ngũ sáng tạo và tác phẩm tiêu biểu.

1. Diện mạo hiện thực: Trên dải đất hẹp của miền Trung, trải dài mười mấy tỉnh từ Bắc vào Nam sau Cách mạng tháng Tám, đã đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp, có sự so le, trồi sụt khác nhau và cũng từ đó hình thành những vùng văn học kháng chiến/ đô thị khác nhau. Có nơi quân đội Pháp quay lại chiếm đóng, buộc nhân dân ta phải đi vào cuộc kháng chiến từ rất sớm. Phần lớn các đô thị là vùng tạm chiếm và nông thôn là vùng tự do, trong tư thế cài răng lược và nhiều cát cứ.

Đất nước độc lập chỉ mới tròn 20 ngày, thì ngày 23/9/1945 nhân dân Nam Bộ lại buộc phải cầm súng chiến đấu chống lại thực dân Pháp quay lại xâm lược. Sau đó, liên tục những cuộc gây hấn và tàn sát đẫm máu của quân Pháp ở nhiều nơi trong cả nước, nhất là cuộc tàn sát ở Hải Phòng và Hà Nội, ngày 19/12/1946 quân và dân Hà Nội phải cầm súng chiến đấu, theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát đi trên Đài Tiếng nói Việt Nam vào rạng sáng ngày 20/12/1946 (lúc này đang đóng ở hang Trầm, Chương Mỹ, Hà Tây). Ở miền Trung, nhân dân thành phố Nha Trang là nơi đi vào cuộc kháng chiến sớm nhất, vào ngày 23/10/1945, chỉ sau Nam Bộ vừa tròn một tháng. Tình thế kháng chiến đã hình thành nên hai vùng tự do khá rộng lớn, đó là vùng tự do khu Bốn gồm các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh và miền núi các tỉnh lân cận, vùng tự do khu Năm kéo dài từ Quảng Ngãi vào đến Phú Yên (sau đó nhập thêm các tỉnh khu Sáu là Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và khu Mười Lăm là các tỉnh Tây Nguyên thành Liên khu Năm). Trong thế cài răng lược, ta làm chủ nông thôn và rừng núi, Pháp chiếm hầu hết các thành phố lớn như Vinh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt... Vùng văn học ở các đô thị thời kỳ này, cho đến nay vẫn là một khoảng trống vắng, ít được quan tâm ghi nhận, bởi vì sáng tác của các tác giả ở vùng tạm chiếm (như Võ Hồng, Đào Đăng Vỹ, Đào Trinh Nhất, Cung Giũ Nguyên...) chủ yếu vẫn tiếp tục dòng chảy của văn chương lãng mạn, không có những thành tựu nổi bật như thời kỳ trước cách mạng. Hiện thực đời sống kháng chiến của miền Trung, nhất là vùng Liên khu Năm hoàn toàn bị chia cắt, phải tự cấp tự túc mọi điều, từ việc tăng gia sản xuất lương thực đến việc thành lập các xưởng quân giới để chế tạo vũ khí đạn dược, ngay cả đồng tiền cũng phải dùng đồng tín phiếu do đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt cho chính phủ ký. Tình hình đó đã đi vào văn chương nghệ thuật kháng chiến, với những nhạc phẩm như Bài ca tự túc (1950) của Trọng Nguyễn, tập truyện ngắn Bát cơm cụ Hồ (1952) của Nguyễn Thành Long, tiểu thuyết Con trâu (1952) của Nguyễn Văn Bổng, hoặc đi vào thơ của Lưu Trùng Dương như:

Đêm nay có chuyến tàu ra

Chở cùng thương xót những toa gạo đầy

Khác với chất mộc mạc, đằm thắm của miền Nam Trung bộ, thơ kháng chiến ở Bắc Trung bộ đậm chất hào hoa, tráng khí, đau đáu như những Nhớ máu (1946), Tình sông núi (1947) của Trần Mai Ninh, Đèo Cả (1946), Màu tím hoa sim (1949) của Hữu Loan, Nhớ (1948) của Hồng Nguyên, Bài ca vỡ đất (1948) của Hoàng Trung Thông...

Ở cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài hơn hai mươi năm, có thể nhận ra ba vùng hiện thực đời sống rõ rệt và kéo theo đó cũng hình thành ba vùng văn học: vùng Bắc Trung bộ từ Bắc vĩ tuyến 17 trở ra, sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa và dốc toàn bộ sức người, sức của để chi viện cho công cuộc giải phóng miền Nam. Vùng Nam Trung bộ, kể gộp cả phần lớn tỉnh Quảng Trị, từ Nam vĩ tuyến 17 trở vào, sống dưới chế độ của chính quyền Sài Gòn, nhân dân đã vùng lên đấu tranh giải phóng và từng bước từ năm 1960 đến 1975, đã hình thành nên những vùng giải phóng, thành lập các chiến khu ở vùng trung du và rừng núi. Khu vực văn học phía Bắc ca ngợi đời sống mới, tự do dân chủ, đấu tranh thống nhất nước nhà, và hòa cùng dòng với khu vực văn học vùng giải phóng, thể hiện quyết tâm thắng lợi kẻ thù xâm lược. Ở khu vực văn học ở các đô thị, lại tách thành nhiều dòng, nhiều nhóm, nhiều trường phái theo nhiều hệ thống quan niệm, trong đó nổi bật là hai xu hướng văn học chống Cộng, ca ngợi chế độ cộng hòa là thiên đường tự do và văn học yêu nước của những nhà văn tâm huyết với văn hóa dân tộc và nhất là của phong trào trí thức đô thị, đấu tranh đòi hòa bình, thống nhất đất nước. Ngay cả những nhà văn không tham gia một tổ chức cách mạng nào cụ thể, nhưng bằng bản lĩnh văn hóa và lương tri của một nhà văn đích thực, họ đã bền bỉ suốt hơn hai mươi năm khẳng định vẻ đẹp của con người và văn hóa Việt, ca ngợi phẩm hạnh và thiên lương của giống nòi, có thiện cảm và hướng về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân. Chỉ tính riêng những tác phẩm về đề tài đời sống kháng chiến và đấu tranh chống áp bức bóc lột, đã có những tác giả như Võ Hồng với Hoài cố nhân (1959), Hoa bươm bướm (1969), Như cánh chim bay (1971); Nguyễn Văn Xuân với Bão rừng (1957), Dịch cát (1966), Hương máu (1969); Phan Du với Cô gái xóm nghèo (1959), Hai chậu lan Tố Tâm (1964), Hang động mới (1970)...

Đất nước hòa bình, thống nhất sau năm 1975 với bao ngỗn ngang của thời hậu chiến, niềm vui hân hoan, đoàn tụ của cả hai miền Nam Bắc chưa trọn vẹn, thì lại phải dốc sức cho hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc, và nhất là những khó khăn về kinh tế bao cấp thời chiến tranh còn tồn đọng, những thiếu thốn trăm bề, không chỉ ở miền Bắc mà còn chuyển sang cả miền Nam sau cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Văn học khu vực phía Bắc chủ yếu vẫn tiếp tục quĩ đạo viết về chiến tranh, về đời sống thời hậu chiến với không ít những đổ vỡ, mất mát và còn có cả những trăn trở, hụt hẫng và lắm nỗi ưu tư. Còn ở khu vực phía Nam, ngoài những tác giả di tản ra nước ngoài, những người ở lại dường như có bước chững lại, im lặng hoặc ngỡ ngàng trước ngưỡng cửa hội nhập trong tình hình mới. Chỉ có các nhà văn ở chiến khu trở về là có thể bắc nhịp với dòng chảy của văn chương thời đại mới. Nhìn chung, bức tranh đời sống văn học nổi bật giai đoạn này trên dải đất miền Trung vẫn là văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh. Điều đáng quan tâm là sự xuất hiện các tác giả trẻ, những người đã từng tham gia, trải qua hoặc chứng kiến sự khốc liệt ở những năm cuối cùng của của cuộc chiến tranh dữ dội và khốc liệt, đẫm máu và nhiều nước mắt.

Trước quẫn quanh của thực trạng bao cấp, kìm hãm bùng nhùng, với những thiếu thốn lưu cửu và đòi hỏi bức bách cần phải đổi thay để phát triển, người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ là Tổng Bí thư Trường Chinh, đã có tầm nhìn chiến lược về qui luật vận động của lịch sử và nhận ra vấn đề cốt tử của vận mệnh đất nước, đề ra một quyết sách có ý nghĩa chiến lược Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại và chuyển giao cho người kế nhiệm chức vụ Tổng Bí thư là Nguyễn Văn Linh, làm tổng công trình sư tổ chức thực hiện. Có thể nói, đó là một cuộc “cách mạng” làm thay đổi toàn bộ các lĩnh vực đời sống kinh tế-xã hội, mà trước hết là thay đổi cái nhìn, tầm nhìn làm lay chuyển tâm tư nguyện vọng của toàn dân. Trong đề án thiết kế của mình, về văn học nghệ thuật Trường Chinh còn nêu rõ “ngoài việc thể hiện những con người tốt, việc tốt thì cũng phải nêu lên, phải vẽ ra những con người xấu, việc xấu để mọi người khinh ghét, tránh xa những cái xấu, làm như vậy không phải là để lên án chế độ mà để chống lại những con người, những sự việc làm trái với lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội (...), cần chú ý xây dựng trong tác phẩm của mình những hình tượng chân thực, truyền cảm, có sức thuyết phục cao về những người lao động chân chính đang lao động chân tay và trí óc quên mình, dũng cảm vượt qua mọi thiếu thốn, khó khăn, vượt qua sự cám dỗ ma quỷ để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã đề ra...”[1].

2. Đội ngũ sáng tác: Nhà văn là nhà văn hóa, là những nhân cách có sự hiểu biết, nên bất cứ thời đại nào, người sáng tạo văn chương đích thực cũng đều là người yêu nước, và sáng tạo cũng là một hành động cứu nước, nhất là vào những thời điểm đất nước có ngoại xâm. Lịch sử đất nước đã hình thành nên vóc dáng người trí thức nặng nợ với văn chương, từ nhà văn - nho sĩ, đến nhà văn - chí sĩ, và khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi chống Mỹ, đã chuyển thành nhà văn - chiến sĩ, một kiểu nhà văn mới xuất hiện sóng đôi với hình tượng trữ tình về người lính như trong Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Đồng chí (1948) của Chính Hữu, hay Tập thơ của người lính (1948) của Lưu Trùng Dương, nhiều người trong số họ đã ngã xuống vì đất nươc, mà sau này Nguyên Ngọc từng đúc kết: “Có lẽ điều quan trọng không phải là họ đã ngã xuống. Điều quan trọng hơn nhiều là họ đã sống và làm việc như thế nào giữa nhân dân trên chiến trường những năm tháng ấy. Có những người sẽ chẳng còn có tên tuổi gì trong nền văn học vinh quang của chúng ta, hoặc giả sẽ có người chỉ còn để lại một cái tên mờ mờ trên trang sách lịch sử văn học chiến tranh giải phóng con em chúng ta sẽ học. Nhưng một nền văn học là gồm những tác phẩm, ưu tú và chưa thật ưu tú, đã đành. Một nền văn học còn là một kiểu nhà văn. Mà đó mới là cái gốc. Kiểu nhà văn nào thì tạo nên nền văn học ấy, với những tác phẩm ấy” [2]. Đó là nhà văn kiểu mới, những người là con đẻ của một nhân dân anh hùng, “cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu”, cùng rút ruột mình ra hòa cùng cuộc sống của nhân dân.

Trên dải đất miền Trung thời chống Pháp, đội ngũ những người sáng tác chủ yếu đến từ hai nguồn có sự kế tục và bổ sung cho nhau, đó là những người ít nhiều đã thành danh từ trước cách mạng và những người trưởng thành trong kháng chiến. Ở những tác giả thành danh trước cách mạng, chủ yếu là từ trào lưu văn chương lãng mạn, theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, có đến 59 tác giả[7] xuất hiện trong đội ngũ sung sức này, tiêu biểu như Hồ Dzếnh, Tú Mỡ, Hoài Thanh, Bùi Hiển, Hoàng Ngọc Phách, Hoàng Xuân Hãn, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Xuân Sanh, Chế Lan Viên, Phan Văn Dật, Thanh Tịnh, Hải Triều, Tố Hữu, Trần Thanh Mại, Lê Văn Hiến, Lưu Quang Thuận, Phan Khôi, Khương Hữu Dụng, Nam Trân, Hằng Phương, Bích Khê, Nguyễn Vỹ, Tế Hanh, Yến Lan, Quách Tấn, Đỗ Huy Nhiệm,... Trong số họ, có người tham gia kháng chiến trên chính quê hương mình, có người tham gia ở những nơi khác, có người tham gia đoàn quân Nam tiến, lại có cả những người do hoàn cảnh gia đình/ cuộc sống cá nhân phải sống và viết ở nội thành hoặc ở nước ngoài, trong đó có cả những trường hợp phải gác bút!. Ở thế hệ những cây bút trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, có đến 50 tác giả, tiêu biểu có thể kể đến như: Trần Mai Ninh, Hữu Loan, Hồng Nguyên, Thôi Hữu, Đặng Thai Mai, Hoàng Trung Thông, Minh Huệ, Trần Hữu Thung, Huy Phương, Hoàng Xuân Nhị, Cẩm Lai, Vĩnh Mai, Nguyễn Khắc Thứ, Lương An, Hồng Chương, Bửu Tiến, Lưu Trùng Dương, Nguyễn Văn Bổng, Trinh Đường, Nguyễn Văn Xuân, Nguyên Ngọc, Lê Đình Kỵ, Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, Nguyễn Viết Lãm, Nguyễn Thành Long, Phạm Hổ, Vương Linh, Nguyên Hồ, Vũ Anh Khanh...

Thời kỳ này, nhìn vào bức tranh đời sống văn học, càng vào phía Nam càng thưa vắng những người cầm bút. Ví như, Quảng Ngãi chỉ có Nguyễn Viết Lãm, Phú Yên chỉ có Nguyên Hồ, Bình Thuận có Vũ Anh Khanh; còn Khánh Hòa, Ninh Thuận và các tỉnh Tây Nguyên hầu như trống vắng hoàn toàn. Điều đó đặt ra yêu cầu cho công tác Nam tiến đối với văn nghệ sĩ nhằm tổ chức, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cho kháng chiến: Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Ngọc Anh... đi Tây Nguyên; Nguyễn Tuân, Hữu Loan, Trần Mai Ninh, Tế Hanh, Tịnh Hà (em ruột Xuân Diệu)... đi Cực Nam, tức là khu Sáu. Điều quan trọng là hầu hết thế hệ những cây bút thời chống Pháp đã bền bỉ sáng tạo đi xuyên suốt hai cuộc kháng chiến và sang đến cả thời hòa bình, thống nhất; thậm chí có người còn bước sang thời kỳ đổi mới với tất cả sự tự hào và luyến tiếc, hoang mang và lúng túng về tầm nhìn và thi pháp biểu hiện, ít nhiều có sự ngỡ ngàng: Tố Hữu, Tế Hanh, Nguyễn Xuân Sanh...

Đông đảo và sung sức là thế hệ các tác giả trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bên cạnh những cây bút thành danh trước cách mạng và thời kháng chiến chống Pháp vẫn còn sung sức như đã nói, có một thế hệ đông đảo, đầy nhiệt huyết và đam mê “cồn cào, dày dạn/ sống thì đi và chết thì nằm” (Trần Mạnh Hảo). Lại thêm một thống kê chưa thật đầy đủ của chúng tôi, có đến 195 tác giả xuất hiện trong thời kỳ này, ngoài những người ngã xuống trên chiến trường và trong cuộc đấu tranh giành độc lập như Dương Tử Giang, Ngô Kha, Trần Quang Long, Phan Trước Viên, Chu Cẩm Phong, Lê Vĩnh Hòa, Nguyễn Mỹ,... còn lại hầu hết đều là những tác giả chủ lực trong hành trình sáng tạo xuyên suốt những năm cuối cùng của thế kỷ XX. Có thể dẫn những tên tuổi tài danh trải dọc theo chiều dài miền Trung như Hà Minh Đức, Văn Tâm, Xuân Sách, Nguyễn Duy, Lê Minh Khuê, Trần Vũ Mai, Nguyễn Minh Châu, Thạch Quỳ, Thái Bá Lợi, Nguyễn Trọng Tạo, Phan Cự Đệ, Đặng Anh Đào, Chính Hữu, Xuân Thiều, Nguyễn Khắc Phê, Đức Ban, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Huệ Chi, Phong Lê, Xuân Hoàng, Lâm Thị Mỹ Dạ, Xuân Đức, Ngô Thảo, Thanh Hải, Nguyễn Khoa Điềm, Tô Nhuận Vỹ, Trần Đình Sử, Lưu Quang Vũ, Bùi Giáng, Thu Bồn, Phan Du, Ý Nhi, Thanh Thảo, Hoài Vũ, Lê Ngọc Trà, Lệ Thu, Cao Duy Thảo, Hoàng Lại Giang, Thanh Quế, Trúc Chi, Giang Nam, Đào Xuân Quý,... Ngay cả những người yêu nước, hoạt động và sáng tác trong phong trào đấu tranh đô thị giai đoạn này (từ Huế trở vào) cũng có đến hơn 40 tác giả, như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Vàng Sao, Phan Duy Nhân, Lê Văn Ngăn, Thái Ngọc San, Võ Quê, Trần Duy Phiên, Trần Hữu Lục, Vũ Hạnh, Tần Hoài Dạ Vũ, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Tường Văn, Thế Vũ, Nguyễn Như Mây... Bên cạnh đó, tình thế văn học đô thị có rất nhiều khuynh hướng, trong đó có cả sự thờ ơ, đi lạc dòng, lạc điệu hoặc đối lập với dòng văn học yêu nước và cuộc kháng chiến của dân tộc, chủ trương văn chương “thuần túy” như Phạm Thế Ngũ, Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í,... Đã gần tròn nửa thế kỷ đất nước thống nhất, khu vực văn học này vẫn chưa được nhìn nhận và đánh giá một cách thấu đáo. Những công trình nghiên cứu có tính kịp thời trước đây như Văn học giải phóng miền Nam (chương Phụ lục) của Phạm Văn Sĩ, Những tên biệt kích trên mặt trận văn hóa của Lữ Phương... tuy công phu, nhưng vẫn dừng lại ở cái nhìn áp đặt một cách vội vã và khiên cưỡng, chưa đủ sức thuyết phục người đọc. Gần đây, rải rác có thêm các công trình Văn hóa, văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ tại miền Nam Việt Nam 1954-1975 (Nxb Thông tin và Nxb Long An, 1990) của Trần Trọng Đăng Đàn, Nhìn lại một chặng đường văn học (Nxb Tp Hồ Chí Minh, 2000) của Trần Hữu Tá, Phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975 (Nxb Hội Nhà văn, 2009) của Trần Hoài Anh, Chút nắng phương Nam (Nxb Hội Nhà văn, 2022) của Phạm Phú Phong (chủ biên)... nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, chưa thể nhận diện một cách đầy đủ diện mạo văn học một giai đoạn với nhiều biến động và lắm khuynh hướng, nhiều trường phái và phong phú về hệ hình. Bởi lẽ, nghệ thuật không phải là tập hợp các giá trị ổn định; nhận thức nghệ thuật luôn vận động, thay đổi chứ không phải là nhất thành bất biến, trong quá trình tạo nên những giá trị khả tín trên con đường nhận thức chân lý.

Thế hệ các tác giả xuất hiện vào một phần tư cuối thế kỷ XX, cũng khá đông đảo, có thể tính bằng con số hằng trăm người. Đó là thế hệ trưởng thành trong những năm hòa bình, thống nhất đất nước và thực hiện công cuộc đổi mới. Tiêu biểu cho những người trưởng thành trong thời hòa bình nhưng vẫn xen lẫn tai ương của hai cuộc chiến tranh biên giới, như Mã Giang Lân, Thái Bá Tân, Phan Hồng Giang, Đoàn Tử Huyến, Lê Thành Nghị, Ngô Minh, Nguyễn Quang Lập, Hữu Phương, Lê Thị Mây, Trần Thùy Mai, Vĩnh Quyền, Tôn Nữ Thu Thủy, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Hoàng Nhật Tuyên, Vu Gia, Lê Ngọc Trà, Huỳnh Như Phương,... Và, trên vòm trời xanh thẳm bỗng xuất hiện những cánh chim báo bão của thời kỳ đổi mới cũng bắt đầu từ phát ngôn của thế hệ đi trước, mà chủ yếu là những người con của mảnh đất nghèo miền Trung quanh năm nắng gió, bão lũ tơi bời, như Nguyên Ngọc, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến,... đến diễn ngôn của các cây bút tiên phong như Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh,... sự đổi mới của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quốc Trung, Nguyễn Quang Lập, Vĩnh Quyền, Trần Thùy Mai, Thanh Thảo, Nguyễn Thanh Mừng, Trần Thị Huyền Trang, Ái Duy, Irasara, Đỗ Hồng Ngọc, Văn Công Hùng, Đặng Bá Tiến, Trần Văn Hội, Trần Chi, Trần Ngọc Trác, bên cạnh các cây bút lý luận phê bình tiên phong đổi mới như Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà, Huỳnh Như Phương, Phạm Xuân Nguyên... tiếp tục là những tín hiệu mới đến từ các cây bút trẻ như Vân Anh, Thy Lan, Hạnh Loan, Hoàng Thụy Anh, Nguyễn Thị Hương Duyên, Nguyễn Thị Lê Na, Phạm Xuân Hùng, Phạm Nguyên Tường, Đinh Thị Như Thúy, Trần Tuấn, Nguyễn Nho Khiêm, Phùng Tấn Đông, Phan Chín, Trần Đăng, Mai Bá Ấn, Lê Hoài Lương, Trần Quang Khanh, Lê Hưng Tiến, Hoàng Thanh Hương... Có thể nói, không thể nào thống kê một cách đầy đủ! Có đến nhiều trăm các tên tuổi mới xuất hiện ở thời điểm giao thoa những năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI này. Họ là những người nắm giữ tương lai văn học của miền Trung và cả đất nước. Người đọc có quyền đặt kỳ vọng vào họ, những người sẽ nghiêng vai gánh vác những gì mà thế hệ đi trước chưa làm được hoặc không thể làm được.

3. Tác phẩm tiêu biểu: Xét cho cùng, thành tựu của một nền văn học được khẳng định bởi tác phẩm, cả về số lượng và chất lượng. Với một đội ngũ mấy trăm tác giả, sáng tác hơn nửa thế kỷ, gắn liền với nhiều sự kiện của đất nước, có nhiều tác giả đứng tên trên mấy chục tác phẩm, cá biệt như Nguyễn Nhật Ánh có đến hơn trăm đầu sách, vì vậy đi tìm tác phẩm tiêu biểu là hết sức khó khăn và chỉ có tính chất tương đối, phần lớn là phụ thuộc vào cảm nhận chủ quan của người viết.

Lục tìm vào “thư viện” của ký ức, không kể hệ thống các tác phẩm nghiên cứu, lý luận phê bình, đã có nhiều tác phẩm văn chương sáng tác còn đọng lại khó phai mờ: Nhân dân một lòng (1953) của Tế Hanh, Việt Bắc (1954) của Tố Hữu, Đất nước đứng lên (1956) của Nguyên Ngọc, Quê hương (1962) của Giang Nam, Bài ca chim Chơrao (1962) của Thu Bồn, Mẫn và tôi (1970) của Phan Tứ, Mặt đường khát vọng (1974) của Nguyễn Khoa Điềm, Đường một chiều (1974) của Nguyễn Mộng Giác, Dòng sông phẳng lặng (3 tập, 1977-1982) của Tô Nhuận Vỹ, Rất nhiều ánh lửa (1979) của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Dấu chân qua trảng cỏ (1980) của Thanh Thảo, Họ cùng thời với những ai (1981) của Thái Bá Lợi, Người đàn bà ngồi đan (1985) của Ý Nhi, Một chiều xa thành phố (1986) của Lê Minh Khuê, Người và xe chạy dưới ánh trăng (1987) của Hồ Anh Thái, Tuổi thơ dữ dội (1988) của Phùng Quán, Đề tặng một giấc mơ (1988) của Lâm Thị Mỹ Dạ, Thiên sứ (1989) của Phạm Thị Hoài, Những mảnh đời đen trắng (1989) của Nguyễn Quang Lập, Chân dung tự họa (1989) của Ngô Minh, Riêng tặng một người (1990) của Lê Thị Mây, Nỗi buồn chiến tranh (1991) của Bảo Ninh, Đồng dao dành cho người lớn (1994) của Nguyễn Trọng Tạo, Thuyền đi trong mưa ngâu (1995) của Hồng Nhu, Mưa trong thành phố (1999) của Lê Thành Nghị, Khúc hát người xa xứ (2000) của Trương Nam Hương... Với một số lượng tác phẩm đồ sộ và hầu hết đều đạt những giải thưởng lớn của quốc gia và quốc tế như trên, việc đi sâu phân tích một cách đầy đủ quả là việc làm không mấy khả thi. Tự lượng sức mình, ở mỗi giai đoạn, chúng tôi chỉ lướt qua một vài tác phẩm, mà ở đó ghi dấu ấn căn cốt của một cá tính sáng tạo, làm nên bản mệnh văn chương của người sản sinh ra nó.

Xin bắt đầu từ Việt Bắc (1954), là tập thơ thứ hai của Tố Hữu, cũng là thi phẩm đạt giải nhất về thơ giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam (1954-1955). Như chính tên gọi của nó, tập thơ không phải ra đời ở miền Trung mà là ở chiến khu Việt Bắc, nơi được coi là đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cũng không hiếm những người hoạt động chính trị có làm thơ, nhưng có lẽ Tố Hữu là trường hợp tiêu biểu nhất. Bởi lẽ, “suốt đời, tôi phấn đấu vì sự nghiệp độc lập dân tộc và lý tưởng cộng sản. Cùng với hoạt động các mạng, tôi làm thơ, cũng vì sự nghiệp cách mạng” [3]. Thơ chỉ là phương tiện để ông hoạt động chính trị. Vì vậy, thơ ông thấm đẫm tư tưởng chính trị và có ý nghĩa thời sự, nhưng vẫn thể hiện giá trị nghệ thuật sâu sắc, song hành cùng với sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc và vì hạnh phúc của nhân dân. Ngay trong lời đề từ của tập thơ Việt Bắc, ông đã khẳng định: “Nhân dân là bể/ Văn nghệ là thuyền/ Thuyền xô sóng dậy/ Sóng đẩy thuyền lên/ Thuyền ra khơi xa/ Gió căng buồm lộng/ Buồm là lao động/ Gió là Đảng ta.” Có thể nói, đó là mục tiêu, là động lục và tâm thức sáng tạo, là kim chỉ nam, xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo thơ ca đỏ thắm của ông, và ông đã được tôn vinh là “lá cờ đầu của thơ ca cách mạng”.

Bên cạnh Việt Bắc, còn có tác phẩm viết về kháng chiến chống Pháp đáng chú ý và cùng đạt giải nhất về tiểu thuyết giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1954-1955) là Đất nước đứng lên, tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Nguyên Ngọc (đạt giải thưởng khi tác giả mới hoàn chỉnh bản thảo, 1956 sách mới được ấn hành). Cuốn tiểu thuyết có 11 chương, chia làm 3 phần. Phần 1 viết về cuộc chiến đấu của nhân dân làng Kông Hoa trước Cách mạng. Phần 2 viết về cuộc chiến đấu từ sau Cách mạng tháng Tám đến đầu những năm 1950. Phần 3 viết về giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến cho đến khi làng Kông Hoa tiễn người con yêu dấu của họ tập kết ra miền Bắc. Truyện xoay quanh đoạn đời một nhân vật có thật là anh hùng Núp - người mà Nguyên Ngọc được phân công ghi chép giúp thành tích để báo cáo tại Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua Liên khu Năm (1953). Là truyện viết về người thật, nhưng tác phẩm đã vượt hẳn và chuyển sang một chất lượng mới, khác với loại truyện kiểu này cùng thời và cả sau này. Thật ra trong suốt hai cuộc kháng chiến, nền văn học viết về chiến tranh của chúng ta đều tập trung vào đối tượng này, và đã có không ít người gặt hái được những thành công. Nhưng người anh hùng trong văn chương Nguyên Ngọc, có nét riêng không dễ trộn lẫn, tuy vẫn được xây dựng bằng thủ pháp huyền thoại hóa nhưng xen lẫn yếu tố phi huyền thoại hóa, “dù được xây dựng theo cách nhìn sử thi, vẫn có sức sống riêng bởi cách thể hiện sinh động của tác giả” [4]. Điều quan trọng hơn, tiểu thuyết này đã ghi dấu quan trọng trên bước đường hiện đại hóa của tiểu thuyết Việt Nam trong việc phản ánh và ngợi ca cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc; là sự mở đầu vang dội, vừa ra đời đã có tiếng vang trong đời sống văn học và cũng từ đây hình thành lối viết của Nguyên Ngọc theo kiểu Nguyên Ngọc. Lối viết này quán xuyến toàn bộ cuộc đời cầm bút của ông. Đó là viết về những con người có thật trong cuộc sống và chiến đấu anh hùng của nhân dân.

Thu Bồn cũng là người gắn bó với Tây Nguyên từ thời chống Pháp, nhưng mãi đến thời chống Mỹ, Thu Bồn mới có Bài ca chim Chơrao (1962) - tác phẩm đầu tay của tác giả và cũng là trường ca đầu tiên trong nền văn chương thời chống Mỹ - là thi phẩm đã mang về cho Thu Bồn “cú đúp” giải thưởng, là giải thưởng của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1965) và sau đó là giải thưởng văn học quốc tế Lotus của Hội Nhà văn Á Phi (1973). Bài ca chim Chơrao là trường ca đầu tiên viết về Tây Nguyên, thể hiện hồn cốt của truyền thống văn hóa và sử thi của đồng bào miền cao, đồng thời mở đầu cho một lối viết trường ca hiện đại, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai phương thức tự sự và trữ tình, trong đó có sự tích hợp, xâm nhập lẫn nhau, hay nói đúng hơn là tác giả đã trữ tình hóa các sự kiện, để cho cảm xúc thẩm đẫm các sự kiện một cách mạnh mẽ, trong bối cảnh cuộc chiến anh hùng của nhân dân, xoay quanh các nhân vật như Hùng - Y Rin và Sao Mai, người có “Bộ ngực căng hồng rẽ sóng sông Ba/ Nước lùa lên đôi vai trần loáng...”. Ngay khi vừa in trên phụ trương báo Văn nghệ, tác phẩm đã có tiếng vang trong văn giới, đã định dạng cho xu hướng hiện đại hóa trường ca và định hình cho giọng điệu văn chương Thu Bồn xuyên suốt 8 tập trường ca (gồm 7.011 câu và 89 đoạn thơ trong trường ca) của ông sau này, khẳng định ông là chủ nhân của một gia sản trường ca đồ sộ vào bậc nhất, chưa tính đến thơ và văn xuôi.

Nối mạch trường ca trong văn chương chống Mỹ, không thể không kể đến Mặt đường khát vọng (1974) của Nguyễn Khoa Điềm. Khác với Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm trầm tư và riết róng trong nguồn mạch trữ tình về nhân dân và đất nước, đánh thức hồn cốt văn hóa - lịch sử, từ bác học đến dân gian, từ cội nguồn đến cuộc sống bình dị thường nhật. Với lối giãi bày “Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm/ Đất nước là nơi ta hò hẹn/ Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm (...) Nhưng lạ lùng thay, nhân dân thông minh/ Không hề lừa ta dù ca dao, cổ tích/ Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật/ Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời...”. Chính vì vậy, cùng với bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, trích đoạn chương V có tên là Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm được chọn đưa vào giảng dạy trong chương trình Trung học phổ thông. Cũng chính tác phẩm này (cùng với hai tập thơ Đất ngoại ô Ngôi nhà có ngọn lửa ấm) đã đem lại cho tác giả Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

Sau khi đất nước thống nhất, trong khoảng thời gian rất dài, văn học nước ta vẫn chưa thoát khỏi nỗi ám ảnh về chiến tranh. Như một dòng chảy có ý nghĩa quán tính từ trong tâm thức sáng tạo của những cây bút vừa bước ra từ cuộc chiến tranh, nhiều người còn muốn quay nhìn lại Dấu chân qua trảng cỏ như Thanh Thảo, hoặc Dấu chân qua thành phố như Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sau khi cho ra đời hai tác phẩm có tính chất thử bút Ngôi sao trên đỉnh Phu Vân Lâu (1971) và Dấu chân qua thành phố (1976), Hoàng Phủ Ngọc Tường chói sáng với tập bút ký Rất nhiều ánh lửa (1979) khiến cho những bậc tài danh về thể văn này đương thời như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Sơn Nam... đều phải nể phục và ngợi khen. Sách viết về cuộc sống trong chiến tranh, thời còn hoạt động trong phong trào đấu tranh đô thị, thời gian khổ ở rừng và những ngày đầu xây dựng cuộc sống mới sau khi nước nhà thống nhất. Nhưng với Hoàng Phủ, vấn đề không phải là viết về cái gì mà là viết bằng cái gì, viết như thế nào. Ông viết bằng tâm thức của một người có “nội công” thâm hậu, thâu tóm được tất cả những gì tinh túy của xứ Huế, bằng tất cả mọi sinh thể, từ cái nhìn, cảm quan, giọng điệu gắn liền với không gian, cỏ cây, núi sông và tâm thức của con người xứ Huế. Ông hiểu đất và người, những vỉa tầng văn hóa xứ Huế đến tường tận. Văn chương ông mỗi câu chữ đều là một sinh thể, có sức sống, quẫy đạp lâu bền trong tâm tưởng người đọc, đến mức cây bút tài hoa vào bậc nhất về thể ký trong văn học hiện đại nước ta là Nguyễn Tuân, khi đọc ông phải thốt lên rằng: “Trong ký của Hoàng Phủ Ngọc tường có rất nhiều ánh lửa”!

Sau Hoàng Phủ, người thứ hai quay nhìn dấu chân quá khứ là Thanh Thảo, một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ những nhà thơ thời chống Mỹ. Tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ (1980) là thi phẩm thứ hai của ông, sau trường ca Những người đi tới biển (1977), ông gom nhặt những bài thơ viết từ thời chiến tranh cho đến những năm hòa bình đầu tiên. Một người lính vào sinh ra tử, không muốn nhắc lại một thuở đạn bom mà ngồi nhìn vào tận sâu thẳm tâm hồn mình chỉ thấy một trảng cỏ thân quen, nơi những đồng đội của mình trên bước đường ra chiến trường vẫn thường qua lại và trên đó dấu chân của họ vẫn còn in đậm với thời gian: “Buổi chiêù qua trảng cỏ voi/ Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh/ Gió nghiêng ngả giữa màu xanh/ Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang// Lối mòn như sợi chỉ giăng/ Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân/ Dấu chân ai đọc nên vần/ Nên nào ai biết đi gần, đi xa”... Và cứ thế, cứ phảng phất ít nhiều cái cảm thức “đi tìm thời gian đã mất” ấy, là mạch ngầm xuyên suốt mấy chục bài thơ đã đem lại giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam cho tác giả. Điều cần lưu ý, bên cạnh Thu Bồn và Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo cũng là tác giả của nhiều tập trường ca được bạn đọc chú ý: Những người đi tới biển (1977), Những ngọn sóng mặt trời (1994), Trăng trên cát (1998), Trường ca chân đất (2009)... Về thể loại, cần phải có một cái nhìn xuyên suốt từ Thu Bồn, qua Nguyễn Khoa Điềm đến Thanh Thảo, mới có thể nhận ra sự vận động và phát triển những đặc điểm nội tại căn cốt của hệ hình thể loại này[8].

Tác phẩm tiêu biểu nhất cho văn học thời kỳ đổi mới là Nỗi buồn chiến tranh (1991) của Bảo Ninh. Qua nhân vật trung tâm, là người luôn có cảm thức rằng mình có lỗi khi được sống sót trở về sau chiến tranh, trầm mình trong nỗi ưu tư, dằn vặt về ý nghĩa cuộc chiến, về nỗi đau mà cuộc chiến đã chà xát lên số phận từng con người; trong đó, có cả sự xâm nhập của vô thức vào bản thể, tạo nên nỗi bất an thường trực trong trạng thái tâm lý của người lính trở về sau chiến tranh. Những vấn đề về mặt thi pháp tiểu thuyết như cái nhìn, cảm quan, quan niệm, nhân vật, kết cấu, cốt truyện, ngôn từ... đều được tác giả đổi mới khá triệt để, như một cuộc bứt phá mạnh mẽ trong tiến trình phát triển thể loại và đời sống văn học. Vì vậy, “Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về chiến tranh trong văn học Việt Nam, là tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại được biết đến nhiều nhất trên thế giới với nhiều chục bản dịch và ở một vài nơi, được đặt ngang hàng với Phía Tây không có gì lạ của văn hào E.Remarque” [5].

Văn học miền Trung nửa sau thế kỷ XX còn quá nhiều tác phẩm xuất sắc, từng cắm những dấu mốc quan trọng trong dòng chảy của nền văn học nước nhà. Trong cái nhìn lướt qua một vài tác phẩm mà người viết có ít nhiều am hiểu, có thể nhận ra rằng, hầu hết những tác phẩm nổi bật trong thời gian này đều viết về chiến tranh, đều là những tác phẩm “nặng ký” của nền văn học: đối với văn xuôi là tiểu thuyết, đối với thơ là trường ca. Điều này chứng tỏ Bakhtin có lý khi cho rằng “tiểu thuyết là thể loại đang vận động và còn chưa định hình”. Đối với sự nghiệp văn chương của từng tác giả, hầu hết đều những tác phẩm đầu tay (Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Bảo Ninh) hoặc được sáng tác trong những năm đầu đến với văn chương (Tố Hữu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo), chứng tỏ trường lực của nhà văn Việt Nam không quá sung mãn như mong mỏi của người đọc. Ví như Bảo Ninh, vẫn thường nói với bạn bè khi vừa tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du, rằng “Nỗi buồn chiến tranh chỉ là bài tập tốt nghiệp. Hãy đợi đấy!...”. Những tác phẩm sáng tác về sau của anh, cũng có “nhiều truyện ngắn xuất sắc” [6] so với mặt bằng chung của văn chương đương đại, nhưng không thể vượt qua cái đỉnh Nỗi buồn chiến tranh. Quả là, văn chương nghệ thuật là con đường càng đi càng thấy xa, đôi khi xa đến ngao ngán, và không bao giờ cán đích!

Văn học miền Trung nửa sau thế kỷ XX cần phải có nhiều góc nhìn khác nữa. Bởi lẽ, còn quá nhiều điều cần nghiên cứu, đánh giá và thẩm định một cách thấu đáo, nghiêm túc, nhằm khẳng định một cách đầy đủ, chính xác, khoa học những thành tựu rực rỡ trong một thời gian dài, một dòng chảy ào ạt không hề ngừng nghỉ, và cũng không hề thua kém so với hai đầu của đất nước. Miền Trung là “quê hương em nghèo lắm ai ơi/ mùa đông thiếu áo, hạ thời thiếu ăn...” (Phạm Đình Chương). Là quê nghèo, mùa nào cũng thiếu. Lại trải qua những năm tháng khốc liệt của chiến tranh. Nhưng người miền Trung cần cù chịu khó, nhạy bén với cái mới, cái đẹp, nên nơi đây sớm là vùng văn, vùng đậm đặc tài hoa thẩm mỹ, sản sinh ra đội ngũ những người theo đuổi nghiệp văn đông đảo, là chủ nhân của một khối lượng tác phẩm đồ sộ, là chân trời xanh thẳm đang vẫy gọi các nhà nghiên cứu, những nhà khoa học có uy tín và nhiệt huyết đối với văn chương.

                                             P.P.P

Chú thích:

[1]. Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại, Nxb Sự thật, tr 66.

[2]. Nguyên Ngọc (1983), Chiến trường những năm tháng ấy, sống và viết, in trong Về một vùng văn học, Viện Văn học-Hội VHNT QNĐN xb, tr65.

[3]. Trần Mạnh Thường (2008), Các tác gia văn chương Việt Nam, Nxb VHTT, tr 2410

[4]. Tôn Phương Lan (2006), Tự điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (tập 2), Nxb Giáo dục, tr 209.

[5]. Yên Ba - Nguyễn Chí Hoan (2024), Can đảm viết, bản lĩnh trao (giải), in trong Viết & đọc - chuyên đề mùa xuân 2024, Nxb Hội Nhà văn, tr16.

[6]. Nguyễn Văn Thuấn (2024), “Truyện ngắn về chiến tranh của Bảo Ninh”, Nghiên cứu lý luận phê bình văn học Huế từ năm 2000, Nxb Đại học Huế, tr.451.

[7] Thử thống kê chi tiết từng địa phương, ta có: Thanh Hóa 5, Nghệ An 6, Hà Tĩnh 11, Quảng Bình 5, Quảng Trị 2, Bình Định 4, Phú Yên 1. Thời này, cả vùng rộng lớn khu Sáu và khu Mười lăm không có tác giả nào đáng chú ý.

[8] Trong cả nước, thế hệ chống Mỹ còn có nhiều nhà thơ viết trường ca như Lê Anh Xuân, Nguyễn Khắc Phục, Trần Vũ Mai, Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hào, Nguyễn Đức Mậu, nhưng ghi dấu ấn quan trọng trong tiến trình của thể loại là ba tác giả ở miền Trung là Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo.