Chúng tôi làm Tạp chí Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ

04.06.2025
Thanh Quế

Chúng tôi làm Tạp chí Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ

Một số văn nghệ sĩ khu V ở chiến khu. Ảnh tư liệu

Tháng 9 năm 1969, sau nhiều lần gõ cửa các cơ quan, cuối cùng tôi gặp được ông Phan Triêm, Phó Ban Tổ chức Trung ương. Nhờ vậy, tôi mới được cấp giấy triệu tập đi B (miền Nam). Khi ấy, tôi đang là cán bộ Nghiên cứu của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, chưa từng qua bất kỳ lớp đào tạo nào về báo chí hay văn học. Tuy nhiên, tôi đã có vài bài thơ được đăng trên báo Văn học và một số tờ báo khác. Ông Phan Triêm nói với tôi:“Ở miền Nam chưa cần cán bộ viết sử, cháu vào sẽ làm báo. Nghe nói cháu thích viết lách mà”.

Thế là tôi trở thành nhà báo.

Ngày lên đường vào Nam ngoài quân trang, đồ dùng, gạo, nắm cơm, ruốc thịt, tôi được cấp một chiếc máy ảnh Praktica của Đức, 10 cuộn phim, 20 lọ thuốc tráng ảnh và một hộp giấy rửa ảnh. Tôi vừa đi đường vừa học cách chụp ảnh, tráng và phóng ảnh từ hai anh nhà báo đi chiến trường Trị Thiên.

Khi vào đến khu V, tôi được phân công về làm việc tại Báo Cờ Giải phóng, cơ quan của Đảng bộ khu. Mấy tháng đầu, công việc của tôi chỉ là gùi gạo, sản xuất ở vùng ranh giới Quảng Ngãi.

Đến tháng 4 năm 1970, tôi được điều về Tạp chí Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ - cơ quan của Hội Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ, được thành lập ngày 9/10/1967, trực thuộc Tiểu ban Văn nghệ, Ban Tuyên huấn khu V. Tạp chí do nhà văn Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) làm chủ nhiệm, nhà thơ Hải Lê (Vương Linh) và nhà văn Nguyễn Chí Trung làm thư ký toà soạn. Theo kế hoạch, tạp chí sẽ phát hành mỗi quý một số (ba tháng một kỳ), nhưng thực tế hiếm khi đạt được chỉ tiêu này. Lý do là vì phóng viên và biên tập viên thường xuyên phải đi phục vụ chiến dịch, bài vở khan hiếm, thiếu giấy, việc in ấn lại vô cùng khó khăn do thiếu máy móc và chữ in. Ngay cả số đầu tiên, dự kiến phát hành sau Đại hội Văn nghệ Khu vào tháng 10 năm 1967, cũng phải dừng lại do phóng viên biên tập tham gia phục vụ cho Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Sau đó số báo mới được làm lại, bỏ bớt phần Đại hội văn nghệ, thêm phần về Tổng tiến công và nổi dậy.

Khi tôi về tới cơ  quan,  anh  chị em vừa mới chuyển địa điểm từ Nước Bui sang Nước Ngoeo (thuộc Trà My, Quảng Nam) để tránh bom B52. Từ nơi cũ đến nơi mới phải đi bộ suốt hai ngày ròng rã. Công việc chính lúc này là làm nhà và phát rẫy để sản xuất lương thực. Vừa chuyển sang chỗ ở mới, chúng tôi hoàn toàn không có lương thực dự trữ (gạo, sắn, bắp). Cả cơ quan phải sống nhờ vào dớn, một loại cây dương xỉ mọc trong rừng. Chúng tôi vào rừng chặt dớn, cắt thành từng khúc, vạt bỏ lớp vỏ cứng bên ngoài. Phần thân mềm bên trong được nạo nhỏ bằng nắp hộp đồ hộp, thành những sợi giống như sợi đu đủ. Dớn được luộc lên để ăn thay cơm, dùng chung với rau rừng. Do ăn dớn trong thời gian dài, bụng lúc nào cũng đói, luôn réo ùng ục. Chúng tôi sống như vậy gần 6 tháng mới bắt đầu có khoai và sắn để thay thế dần dớn làm nguồn lương thực chính.

Khi việc làm nhà tạm ổn, chỉ còn phải tiếp tục trồng sắn và tỉa lúa, nhà thơ Vương Linh triệu tập Ban biên tập tạp chí gồm nhà thơ Dương Hương Ly (Bùi Minh Quốc), nhà văn Chu Cẩm Phong, nhà văn Cao Duy Thảo và tôi lính mới bàn về việc làm tạp chí số mới. Trước khi vào phần chính, anh thông báo ngày hôm sau nhà văn Cao Duy Thảo được cơ quan cử đi công tác ở tỉnh Bình Định.

Tạp chí số này được xác định sẽ có nhiều nội dung đặc biệt, gắn với các ngày kỷ niệm lớn: Ngày sinh nhật Bác (19-5), ngày Quốc tế Thiếu nhi (1-6) và ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21-6). Nhà văn Chu Cẩm Phong được phân công làm biên tập chính cho số này. Nguồn bài vở được huy động từ hai nơi. Thứ nhất là bài do anh em trong cơ quan viết. Thứ hai là bài của cộng tác viên từ các cơ quan quanh Khu và các tỉnh gửi về, thông qua đường giao liên. Tuy nhiên, bài “đinh” - những bài trọng tâm, chất lượng cao vẫn do anh em trong toà soạn đảm nhiệm. Trước đó, chúng tôi đã làm ba  chiếc  bàn viết từ thân cây nhỏ, ghế ngồi cũng vậy. Mỗi người kiếm một chai nhỏ đựng dầu, làm tim đèn (loại này khi đi cõng gạo ở đồng bằng anh em xin bạn bè, đồng bào), rồi đặt đèn vào trong thùng dầu (đã dùng hết), chừa một lỗ cho ánh sáng đi qua, ngồi viết (vì đề phòng máy bay địch đi qua phát hiện). Ban ngày sản xuất, ban đêm ngồi viết giữa sự mệt mỏi, giữa cơn đói. Nhiều khi mệt và đói quá, mấy anh em đồng loạt giải lao rồi kể lại những món ăn mà mình thích. Dương Hương Ly kể về cái ngon của phở Hà Nội. Chu Cẩm Phong cho rằng mỳ Quảng là thứ ngon nhất xứ anh hùng… Tôi ngồi nghe nuốt nước miếng ừng ực. Rồi mọi người, sau khi “ăn kể” lại cắm cúi làm việc đến khuya…

Sau một tuần, anh em cũng viết xong. Chu Cẩm Phong có truyện “Lá đơn tình nguyện” kể chuyện một cậu bé mới 13, 14 tuổi viết đơn xin vào đội du kích. Câu chuyện rất phù hợp làm “đinh” cho số báo chào mừng ngày Quốc tế Thiếu nhi. Dương Hương Ly đưa ra một bài thơ về Bác (cùng với bài thơ có sẵn là “Gởi lòng con đến cùng cha”của nhà thơ Thu Bồn), thế là có bài về sinh nhật Bác. Chu Cẩm Phong lục trong số bản thảo cũ, rút ra di cảo truyện “Hoa Rừng”của nhà báo, nhà văn Dương Thị Xuân Quý, viết dọc đường Trường Sơn, trước khi đi công tác và hy sinh ở Duy Xuyên đã gởi cho anh đọc. Chu Cẩm Phong viết sapô nhấn mạnh về nhà văn, nhà báo Dương Thị Xuân Quý đã xung phong vào chiến trường khi đứa con gái mới hai tuổi và sự hy sinh anh dũng của chị, rất hợp để kỷ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam. Nhà văn Cao Duy Thảo trước khi đi công tác có gởi lại truyện ngắn “Bạn đường”. Tôi, lính mới, lỏn lẻn đưa bài thơ “Đôi bàn tay Bác”...

Bản thảo đã xong. Ở cơ quan có một chiếc máy chữ. Chu Cẩm Phong và Dương Hương Ly đánh máy, lên makét. Bìa tạp chí thì đã có sẵn bản khắc gỗ, từ số 1, do anh em họa sĩ ở cơ quan và anh em biên tập đã chọn chữ, dựa vào các tạp chí ở miền Bắc gởi vào để áp dụng cho mình. Mỗi số, ngay bìa 1 là 1 bức tranh ký họa lúc thì của họa sĩ Nguyễn Thế Vinh, lúc của họa sĩ Hà Xuân Phong hay Giang Nguyên Thái. Số này anh em chọn tranh “Bà mẹ trụ bám” của Hà Xuân Phong. Sau khi anh Vương Linh xem qua, anh Chu Cẩm Phong phải băng rừng vượt suối đi suốt hai ngày đường về Ban Tuyên huấn khu V để đưa cho anh Hồ Quốc Phương, Phó Ban thường trực duyệt. Anh Phong chờ ở đó mấy ngày, được duyệt xong mới mang về.

Lúc này, vấn đề tiếp theo là in ấn. Nhà in của Khu cách chỗ chúng tôi gần một tiếng đi bộ. Ở đây có vài máy in đã cũ, chữ chì cũng thiếu vì từ miền Bắc chuyển vô đã mấy năm. Công nhân phải ngồi ghép từng chữ vào để thành một từ rồi từng từ để thành một câu. Có khi, nhà in nhờ chúng tôi cùng làm với công nhân. Việc sắp chữ phải mất hàng tháng. Sau đó, nhà in dập thử để chúng tôi sửa lỗi ti-pô, rồi mới chạy máy. Các tranh bìa, minh họa đều được công nhân khắc gỗ.

Đó là lúc tình hình chiến khu hơi yên, địch không đánh phá khu vực nhà in, chứ nếu có máy bay địch đánh phá hay bị địch càn quét, việc in sẽ gián đoạn. Công nhân phải cõng máy, cõng chữ di chuyển đến chỗ mới nên có khi phải in chậm hay bỏ luôn số báo đó.

Tôi nhớ vào đầu năm 1971, chúng tôi làm xong một số báo mới. Nhà thơ Dương Hương Ly đem bài về Ban Tuyên huấn Khu duyệt. Lúc này địch đánh lên căn cứ Khu A, nơi các cơ quan khu ủy và quân khu đóng. Ban Tuyên huấn phải di chuyển sang nơi khác, nên anh phải đi tìm và ở lại đó chờ duyệt bài và chờ địch rút. Mãi đến tháng 10, 11 anh mới về cơ quan, dẫn theo đoàn nhà văn trẻ mới ở miền Bắc vào, bị địch càn, phải tạm lánh ở Ban Tuyên huấn Khu. Vì bài vở đã cũ, chúng tôi phải bỏ bớt một số bài có tính chất thời sự và thêm vào những bài mới. Thế rồi anh Dương Hương Ly lại lên Ban Tuyên huấn Khu duyệt lại, mãi sang đầu năm 1972 mới in.

Từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1974, tình hình chiến khu yên ả hơn. Chúng tôi cùng nhà in khu dời về gần Ban Tuyên huấn Khu. Lúc này các nhà văn Nguyên Ngọc, Vương Linh ra Bắc chữa bệnh. Hội Văn nghệ Giải phóng Khu V do nhà văn Nguyễn Chí Trung, Ủy viên Đảng đoàn phụ trách. Anh chỉ đạo cả tờ Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ và tờ tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ. (Tờ Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ cũng do Nguyên Ngọc và Nguyễn Chí Trung phụ trách, xuất bản trước cả tờ Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ. Ở đây có các phóng viên, biên tập như Thái Bá Lợi, Ngân Vịnh, Nguyễn Bảo, Vũ Thị Hồng).

Nguyễn Chí Trung vừa chỉ đạo, vừa phân công phóng viên đi công tác, san sẻ bài vở và duyệt cả hai tờ tạp chí. Lực lượng văn học lúc này cũng đông. Anh chị em được phân đi tất cả các tỉnh trong Khu, tận Phú Yên, Khánh Hòa và Tây Nguyên chứ không chỉ đi các tỉnh gần Khu như trước. Anh chị em vừa viết bài, vừa lấy bài của cộng tác viên các tỉnh trong Khu gửi về nên bài vở dồi dào và đa dạng hơn. Hai tờ tạp chí đều ra đều kỳ, 3 tháng rồi 2 tháng 1 số. Lúc này bài vở phục vụ kịp thời các ngày lễ lớn cũng đầy đủ và phong phú hơn.

Vào tháng 3 năm 1974, nhà văn Nguyễn Chí Trung đã bàn với Ban Tuyên huấn Khu cho chúng tôi tập trung một đợt viết 15 ngày. Chủ đề của đợt viết là về Bác Hồ, trong đó có việc lấy và chuyển gỗ từ Làng Hồi (Hiệp Đức, Quảng Nam) ra Hà Nội góp phần xây lăng Bác. Nhờ đó bài vở phục vụ cho dịp 19-5 có đầy đủ và chất lượng hơn.

Để kịp nội dung cho số báo quý II năm 1974 được cập nhật và sinh động hơn, nhà văn Nguyễn Chí Trung đã cử tôi xuống Xuyên Hòa (nay là Duy Hòa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) - một xã anh hùng, nơi vừa diễn ra sự kiện đội du kích xã tiêu diệt một tên ác ôn khét tiếng, qua đó mở rộng vùng kiểm soát ở khu Tây Duy Xuyên. Anh Nguyễn Chí Trung cho phép tôi vừa đi thực tế, thu thập tài liệu, vừa viết bài để nộp trong vòng 15 ngày, trong khi các bài vở khác cho số báo này đã được chuyển đến nhà in. Lúc đó, nhà in cũng vừa được trang bị máy móc và bộ chữ mới; giấy in cũng dồi dào hơn nhờ tuyến vận chuyển 559 đã bớt ác liệt sau khi Hiệp định Paris được ký kết.

Được phân công đi viết bài, tôi tự tính, nếu theo giao liên đi bình thường, từ Ban Tuyên huấn Khu xuống Ban Tuyên huấn Quảng Đà để xin giấy tờ xuống xã phải mất hai ngày, rồi từ đó xuống Xuyên Hòa phải thêm một ngày nữa. Vị chi mỗi một việc đi đường lên, xuống phải mất sáu ngày. Ngay chiều hôm được phân công, tôi đến kho của Ban Tuyên huấn lãnh gạo, muối mì chính cho 15 ngày. Sáng hôm sau, tôi không theo giao liên mà tự băng rừng, men theo con đường tôi đã quen khi đi công tác lần trước, ròng rã trong một ngày, tới Ban Tuyên huấn Quảng Đà. Hôm sau, tôi theo mấy người đi lấy gạo, vượt qua đồn địch còn đóng trên một ngọn đồi, xuống Xuyên Hòa chỉ mất hơn nửa ngày. Tôi trình giấy tờ cho anh Bí thư xã đã quen lần trước rồi tìm đến đội du kích, ăn ngủ với anh em, nghe họ kể chuyện diệt ác. Hai ngày sau, tôi ngược lên Ban Tuyên huấn Quảng Đà nhưng không vào cơ quan mà tìm một lùm cây gần đó, có một tảng đá lớn tương đối phẳng, mắc võng kề bên để ngồi và nằm nghỉ, nấu một hăng gô cơm để ăn với muối và mì chính cả ngày rồi kê giấy lên tảng đá viết nháp bài ký. Hai ngày sau thì nháp xong. Tôi vội tự đi (không theo giao liên) về cơ quan, vừa đi vừa nghĩ, có lúc dừng lại, kê giấy đã viết trên một tảng đá, một cây rừng để sửa. Về tới cơ quan tôi ngồi một ngày chép sạch bản thảo rồi đưa nhà văn Nguyễn Chí Trung đọc duyệt. Ông giục chị Nhung, vợ nhà thơ Dương Hương Ly đánh máy rồi bảo tôi đem lên nhà in nộp bổ sung vào tập bản thảo đang xếp chữ. Tất cả mọi việc có lẽ chưa tới 15 ngày. Tôi đã vượt kế hoạch.

Kể lại chuyện làm báo, làm tạp chí trong chiến tranh sao tôi thấy nhói lòng khi nhắc lại chuyện những đồng đội của tôi. Gương mặt, bóng dáng của các anh, các chị chưa bao giờ phai nhòa trong lòng tôi. Tôi nhớ nhà văn, nhà báo Chu Cẩm Phong, người anh luôn gần gũi bên tôi những năm tháng tôi mới vào chiến trường. Anh chỉ bảo cho tôi mọi việc từ kiếm thức ăn để sống, đến việc lấy củi, phát rẫy, trồng sắn và cách đi công tác ở vùng sâu sao cho an toàn.

Đầu năm 1971, anh đi công tác vùng Đông Quảng Đà. Vì bị địch càn, anh tạt vào xã Xuyên Phú vùng Tây Duy Xuyên, lấy tài liệu để viết một cái bút ký cho tạp chí chúng tôi. Anh ngã xuống vào ngày 1/5/1971, tại một căn hầm bí mật ở thôn Vinh Cường, Xuyên Phú, Duy Xuyên, Quảng Nam. Do sơ suất của một đồng chí, căn hầm bị lộ. Địch mở nắp hầm ném lựu đạn tới tấp xuống. Anh xé tài liệu, chôn xuống đất và bảo các đồng chí: “Không được đầu hàng, phải chiến đấu đến cùng”. Rồi anh cùng đồng đội xông ra cửa hầm, tung lựu đạn lên và hy sinh. Anh được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Tôi nhớ nhà văn, nhà báo Dương Thị Xuân Quý vừa từ miền Bắc vào chiến trường, đã xin đi công tác vùng sâu. Khi địch càn tới chị không chịu di chuyển đến nơi an toàn theo lời khuyên của cán bộ xã mà cùng chiến đấu và núp hầm bí mật với anh em du kích. Địch bao vây quanh khu vực ấy. Đêm đến, chị cùng anh em mở nắp hầm, vượt vòng vây. Chị bị địch phát hiện nổ súng. Chị ngã xuống, máu thấm đỏ chiếc gùi chị mang sau lưng, trong đó có bản thảo bài bút ký chị đang viết dang dở.

Tôi nhớ nhà báo, nhà thơ Nguyễn Mỹ bị địch phục kích bắn anh tại rẫy sản xuất ở Nước Oa. Tôi nhớ nhà báo Đinh Thành Lê ở báo Cờ Giải phóng Khu, nhà báo Nguyễn Văn Vượng ở Thông Tấn xã Khu, cùng hy sinh ở Dốc Ba Rẫy (Quảng Ngãi) khi đi lấy gạo cho cơ quan. Tôi nhớ nhà báo Ngân Giang ở Báo Quảng Ngãi đã bị nước cuốn trôi trên đường đi từ cơ quan đến nhà in giữa mùa lụt…

Chúng tôi đã làm báo trong khói lửa chiến tranh, không phải để ghi chép cho riêng mình, mà để lưu lại hơi thở của một thời đại, để phản ánh ý chí và khát vọng của cả một dân tộc đang đứng lên giành lại tự do, độc lập. Mỗi bài viết, mỗi trang báo là một phần máu thịt, là sự dấn thân và đôi khi là cả mạng sống của những người cầm bút.

Những người bạn, người anh, người chị từng chung vai sát cánh với tôi - giờ có người vẫn đang miệt mài viết tiếp, có người đã đi xa mãi mãi. Nhưng tôi luôn tin rằng, trong sâu thẳm trái tim của mỗi nhà báo từng đi qua chiến tranh, ký ức về một thời làm báo giữa bom đạn và thiếu thốn sẽ mãi là ngọn lửa âm ỉ cháy - không gì có thể dập tắt. Các anh, các chị vẫn mãi mãi còn đây, cùng chúng ta, góp mặt trong từng bài báo, vần thơ, truyện ngắn đang được viết ra mỗi ngày trên các mặt báo, tạp chí hôm nay…

T.Q