Một thời làm báo trong lửa đạn
Bức ảnh duy nhất có mặt đầy đủ các nhà báo tại mặt trận Quảng Đà. Ảnh: Tư liệu
Một người bạn trẻ, chừng ngoài bốn mươi, hỏi tôi: “Thế nào là ác liệt?”
Tôi không trả lời ngay, chỉ kể cho anh nghe một câu chuyện trong quãng đời làm báo chiến trường của tôi.
Hồi ấy, tôi cùng anh Vũ Thành Lê về công tác tại cơ quan Báo Giải phóng Quảng Đà, lực lượng lúc ấy chỉ vỏn vẹn sáu người. Anh Trần Văn Anh có màu da phong sương, đen sạm, gầy, đeo gương cận mà trông như một nông dân thứ thiệt. Anh là dân Hòa Khương, tập kết ra miền Bắc năm 1954. Khi có tiếng gọi vì miền Nam ruột thịt, năm 1965, anh xung phong về Nam. Anh Hoàng Kim Tùng cũng đen, người nhỏ con như anh Trần Văn Anh, nói giọng Quảng Trị nặng trịch. Anh là giáo viên cấp ba ở Đông Hà, Quảng Trị. Khi giặc Mỹ tăng quân, tăng cường tay sai, anh chia tay người vợ trẻ và con trai mới ba tuổi, xung phong vào Nam chiến đấu. Anh Nguyễn Hữu Mười, còn gọi là Mười Tùy, trông chững chạc, ít nói, cẩn thận từng lời, viết cũng nắn nót. Năm 1962, du kích xã Điện Thọ xuất hiện phá kìm, anh kéo mấy thanh niên trong xã thoát ly lên núi. Hoài Hà quê ở Quảng Ngãi, là học sinh miền Nam tập kết ra Bắc, sau cũng xung phong trở lại chiến trường. Nguyễn Trọng Định là phóng viên báo Nhân dân tại Hà Nội, xung phong chi viện cho báo Quảng Đà. Dương Tấn Nhường, dân quận Ba, Đà Nẵng, theo bà con tập kết ra Bắc, xung phong vào chiến trường. Trần Mậu Tý, dân Duy Xuyên, thoát ly sớm. Riêng Hải Học, nước da trắng trẻo, thân hình to béo, nhìn bề ngoài dễ khiến người ta nghĩ đang giữ một trọng trách nào đó. Anh chào chúng tôi với vẻ hơi lạnh lùng. Trước đó, Học đang theo học ngành Thông tấn ở Liên Xô, nhưng giữa chừng bị liệt vào diện “xét lại”, buộc phải rút về nước. Mới vào chiến trường, lại đóng ở đồng bằng, cơ quan còn dựa vào nhà dân nên trông anh vẫn chưa sụt cân bao nhiêu.
Bữa ăn đầu tiên với anh em Báo Giải phóng Quảng Đà chiều hôm đó có măng tươi xào với thịt hộp và rau dền luộc chấm mắm cái, một bát nước luộc rau dền xanh làm canh. Khi tôi bước lại ngồi vào bàn ăn thì thấy Hoàng Kim Tùng từ sau nhà đi vào, thò tay vào túi áo hốt ra một nắm ớt tươi bỏ lên mâm. Anh gật đầu chào chúng tôi, hé miệng cười: “Chi chớ ớt thì tha hồ”. Anh nói vừa hái ở vườn không có người dân.
Sau chiến dịch T.25 - Tết Mậu Thân năm 1968, rồi các chiến dịch Hè Thu, địch tăng cường phản kích bằng phi pháo. Phản lực bay trên trời phát hiện mục tiêu là trút bom ào ạt xuống làng, nếu trúng mục tiêu thì gây sát thương lớn. Phóng viên Dương Tấn
Nhường xuống cơ quan Quận ủy quận Nhất Đà Nẵng, đóng trong nhà dân ở Điện Phong, lấy tin hoạt động nội thành, trên đường về thì bị một loạt pháo bầy, hy sinh. Phóng viên Nguyễn Trọng Định đang đi Điện Quang lấy tin của bộ đội D3 thì bị một loạt bom tọa độ, hy sinh. Trần Mậu Tý đi công tác vùng Đông, khi về lại cơ quan trên núi Hòn Tàu, phải đi ba lần không thể vượt qua quốc lộ 1. Đến lần thứ tư, anh vừa bám lên đến thôn Ba Xuyên Tân thì bị Mỹ phục kích, hy sinh.… Kinh khủng nhất là máy bay phản lực Mỹ trút bom bừa bãi, từ đó hình thành “chủ trương miệng” tránh xa mục tiêu do tàu rà phát hiện, vừa bớt thương vong, vừa bớt căng thẳng đầu óc, mỗi khi phản lực quầng lượn trên đầu.
Sau chiến dịch T.25, địch tung quân phản kích. Ta không lùi về cố thủ trong căn cứ Hòn Tàu mà mở liên tiếp hai chiến dịch X1 và X2. Cơ quan Báo Giải phóng Quảng Đà rời Gò Nổi trong um tùm cỏ bói, dời về thôn Long Hội, Điện Thái, Điện Bàn.
Đặt chân đến Long Hội, chúng tôi bắt tay ngay vào việc làm hầm chống phi pháo. Những ngôi nhà ngói đổ xiêu vẹo, nhiều khu vườn không có người chăm sóc, vô số cây gỗ, mái che để làm nên một căn hầm chữ A chắc chắn. Làm trên nóc hầm một cái trại như cái chòi giữ vịt. Ban ngày im ắng có thể treo võng nằm đọc báo, hoặc ngồi ghi chép. Trong hầm có thể treo chật chật được năm - sáu cái võng. Ai siêng thì lội vào vườn hoang kiếm rau, bà con bỏ vườn đi tránh bom không ai thu hoạch. Cùng với việc làm hầm, anh em còn dự trù gieo vài hàng đậu xanh để sau này lấy hạt nấu chè. Đang chuẩn bị việc sản xuất tự túc, thấy tình hình không ổn, có ý kiến bàn ra: Chắc ăn nhất là đem đậu rấm giá vài hôm là có cái ăn.
Đúng hôm giá ăn được, bỗng có người từ dưới bến Thu Bồn lên, đi qua tỏ ý bán con cá tràu khá to độ một cân. Anh Trần Văn Anh mua ngay, xách con cá tràu vào, ai cũng trầm trồ. Nhiều ý kiến đề xuất món ăn cho xứng đáng với con cá tràu: nấu ốm, nấu canh chua, kho nghệ, nấu một nồi cháo, làm mỳ Quảng. Món nào nghe nhắc đã thấy thèm. Hầu như dân Quảng rất ghiền mỳ Quảng. Phiếu dành cho mỳ Quảng đa số áp đảo, thế là bắt tay ngay cho kịp bữa chiều. Anh Hoàng Kim Tùng nhận khâu vất vả nhất: ngâm gạo, xay bột.
Anh Trần Văn Anh lấy sống lưng con dao gõ một cái cốc lên đầu con cá tràu làm nó không vùng vẫy mà trân mình rồi nằm thẳng đơ. Sau khi đánh vảy, rửa sạch, anh đặt con cá tràu lên thớt, lấy con dao róc thịt cá thành từng lát dài rồi chấn lại từng khổ vuông... Lóc thịt cá xong ướp hành, tiêu, tỏi, cho chút nước mắm, mì chính, để đó một chặp, khử dầu tới bỏ “thịt” vào um cho thấm. Xương, đầu cá bỏ vào cối giã, lọc lấy nước lóng đi lóng lại còn cái xác phàm mới thôi.
Khi anh Tùng mang mỳ lá về, một thoáng sau là có mỳ. Đó là bữa mỳ Quảng nhưn cá tràu ngon tuyệt và nhớ đời. Nhớ đời bởi sau bữa liên hoan ấy, gần trưa ngày 29/12/1968, một trận bom khốc liệt của không lực Hoa Kỳ ném xuống Long Hội.
Theo ý kiến anh Trần Văn Anh, sáng dậy cần phân tán bớt ra xa khu vực cơ quan, rủi có chuyện gì còn có người để làm việc. Vì vậy, sáng hôm ấy, Hồ Hải Học, Hoài Hà và Vũ Thành Lê, mang gùi ra bãi bói dọc mé bờ sông Thu Bồn, phía Cẩm Văn, rúc vào trong mấy cái hầm cóc trong bãi bói làm việc. Ở nhà còn Trần Văn Anh, Nguyễn Đình An (lúc này còn là phóng viên Báo Giải phóng Khu V đang là khách), Hoàng Kim Tùng và tôi.
Khi thấy chiếc tàu hai thân vòng vào, lượn một vòng trên cao để xác định mục tiêu, đồng thời tiếng phản lực từ xa vọng lại, mọi người lập tức xuống hầm trú ẩn. Anh Hoàng Kim Tùng ra lệnh:“Nếu tôi hô chạy thì tất cả tung lên chạy, không thì bám yên trong hầm”.
Chiếc tàu hai thân sà xuống thấp dần, tiếng phản lực càng lúc càng lớn. Cơ quan báo nằm trong tầm quan sát của tàu rà. Anh Hoàng Kim Tùng đứng ở miệng hầm đưa đầu lên theo dõi thằng tàu rà, xem hắn ném quả khói ở đâu. Anh đứng trong tư thế chân cao chân thấp, sẵn sàng vọt lên khỏi miệng hầm tuôn chạy. Trong lúc đó, anh Trần Văn Anh ngồi trong cùng, loay hoay với cái xách tài liệu, trong đó có quyển sổ ghi chép và tập bản thảo bút ký: “Đêm Gò Nổi”, và cái thắt lưng đeo cây súng ngắn K.59. Anh tính, nên đeo thắt lưng vào vai, hay xách trên tay để vọt lên miệng hầm cho nhanh, khi có lệnh của Bí thư Chi bộ Hoàng Kim Tùng. Anh là người, nếu chạy sẽ là người chạy sau cùng.“Đêm Gò Nổi” là tác phẩm đầu tay khi anh Trần Văn Anh tròn 35 tuổi. Anh chỉ đọc bản thảo vừa kịp hoàn thành, đang tiếp tục chỉnh sửa mỗi khi có thời gian cho đến khi đưa đi nhà in.
Tiếng tàu hai thân rít sát ngọn tre như tiếng bò rống, rợn người. Tiếp theo là một tiếng cắc - bùm đanh và rền. Tức thì, một ngụm khói trắng bùng lên như cây rơm, cách hầm của báo chừng ba mét.
- Chạ...y! Lệnh anh Hoàng Kim Tùng vang lên nghe lạnh người.
Đến lượt tôi vọt lên khỏi miệng hầm, thì anh Hoàng Kim Tùng - người chạy đầu đã cách xa hầm chừng một trăm mét, còn anh Trần Văn Anh đang loay hoay nửa trên, nửa dưới chỗ miệng hầm.
Tất cả đều cắm cổ chạy bán sống bán chết về hướng bãi bói ven sông Thu Bồn. Vừa chạy, tôi vừa ngoái đầu lại xem anh Trần Văn Anh tới đâu. Khi anh Trần Văn Anh ra khỏi hầm chừng 50 mét, cách sau lưng tôi khoảng 20 mét, thì chiếc phản lực bay đầu đang rít xuống gầm rú nhức óc. Từ xa, tiếng anh Hoàng Kim Tùng rít lên:
- Nằ...m xuống!
Một loạt bom quét xé nát bươm một vùng đất thôn Long Hội, cách hầm của Báo Giải phóng Quảng Đà chừng 15 mét, cây cỏ nằm bẹp xẹp như vừa bị một cơn lốc dữ dằn. Chiếc phản lực thứ hai ném tiếp một loạt bom nữa, loạt này thì trật lất. Rồi hai thằng F5 không vòng lại, bay thẳng ra phía biển.
Chiếc tàu rà hai thân, thường gọi là OV-10, quầng cao hơn quan sát, lì như đỉa, chưa chịu rời mục tiêu. Tôi liều quay lại về phía hầm. Phía sau tôi chỉ có anh Trần Văn Anh. Anh bị loạt bom quét vùi trong cỏ tranh đang cố ngoi dậy, nhưng đành chịu. Tôi chạy đến bên anh. Anh nhìn tôi, nói tỉnh rụi:
- Hắn lấy cái mông anh rồi! Tôi la to:
- Anh bị thương. Mau lên!
Hoàng Kim Tùng, Nguyễn Đình An nghe tiếng gọi thất thanh, hớt hãi chạy lại. Anh em xúm đến dìu anh Trần Văn Anh dậy. Không biết bao nhiêu cái mảnh găm vào người anh, rõ nhất là cái mảnh hớt nửa cái mông, một mảnh khác cắt gần rớt chân trái của anh. Máu lai láng không tài nào ngăn lại được và cũng không có loại cầm máu nào trong tay chúng tôi trước một vết thương nặng như vậy. Người anh bê bết máu, bụi đất.
Mọi người vô cùng lúng túng dìu anh về phía miệng hầm, chưa biết xoay xở làm sao thì đợt phản lực thứ hai vào. Anh Trần Văn Anh hối anh em chạy ra xa. Anh em đành để anh nằm bên miệng hầm, chạy. Hết đợt bom thứ hai, mọi người chạy về bên anh, tất cả chúng tôi đều đau nhói lòng thấy vết đau đang hành hạ anh. Máu cứ rỉ ra. Các anh sơ tán ngoài bãi bói đã kịp về, các chị cơ quan Phụ nữ xúm lại, có y tá, có cứu thương, nhưng đều bất lực trước vết thương xé nát người anh. Kẻ chặt tre làm đòn, người lấy võng của anh cột dây làm cáng, thay nhau khiêng anh ra trạm xá Điện Bàn, cách hầm của Báo vài cây số. Chân yếu tay mềm, nên mỗi người kê vai khiêng một đoạn thì khum người đổi vai, xin thay.
Tàu rà cứ bám riết trên đầu nên phải khiêng anh đi dựa vào bờ tre, mặc cho gai xước rách da. Mỗi lần chiếc võng cà cọ vào gai tre là anh thót người lên, rên hừ hừ. Chúng tôi đau từng đoạn ruột, nước mắt cứ ứa ra. Anh bảo cắt trớt cái chân đau cho khỏi vướng. Lúc đau quá, anh bảo lấy súng bắn cho chết đi, đừng làm khổ anh em. Đi được một đoạn xa thì anh đưa tay ra hiệu dừng. Tất cả vây quanh chiếc võng, Anh nói trong tiếng nấc:
- Anh đau lắm! Đau không thể tưởng tượng được! Các em cho anh rên một chút.
- Thì anh cứ rên đi! Anh rên cho đỡ đau.
Anh ra hiệu cho anh em lại gần, thì thào:
- Chắc anh không sống nổi đâu, đừng tiêm thuốc gì cho anh cả. Anh mong các em ở lại đoàn kết, lo hoàn thành nhiệm vụ, lo cả việc của Đảng giao cho anh...
Về báo không lâu, nên tôi chỉ biết anh là thủ trưởng, chưa một lần được nghe anh nói về gia đình. Chỉ một hôm, bên bờ suối, đang lo cơm chiều, thì anh nhắc đến thằng Nùng. Không rõ do đâu, giữa lúc đó, tôi bỗng nhớ câu chuyện anh kể về thằng con trai trên ba tuổi, tên là Nùng. Có kẹo, anh dành để trong tủ, mỗi lần con xin thì anh lấy cho vài cây. Bỗng một hôm, Nùng chạy lại bên ba, nói: “Ba ơi, hôm nay, con không xin”.
Anh thấy lạ thì thằng Nùng nói: “Để con vào tủ tự lấy kẹo nghe ba…”. Tôi biết, lúc đó anh không còn đủ thời giờ để nhắc đến các con và vợ đang ở rất xa…
Dù mệt và đói, chúng tôi đều cố sức khiêng anh đi thật nhanh, hy vọng bệnh xá có thuốc cầm máu, băng bó cho anh. Anh lại đưa tay ra hiệu, bảo đưa anh ghé thăm anh Ba Phước - Hồ Nghinh, Bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà.
Đi được nửa đường, vừa đặt chiếc cáng xuống đất, dưới lùm tre, ông Hồ Nghinh đi ra, đi cạnh ông là y sĩ Mười. Anh Trần Văn Anh bảo nâng cái đầu anh lên để anh nhìn ông Nghinh. Tôi quỳ hai đầu gối xuống đất, nâng đầu anh lên trên đầu gối của tôi. Anh nhìn ông Nghinh, đưa tay bắt tay đồng chí Bí thư mà anh rất kính phục.
Ông Nghinh nhíu mày, rưng rưng, an ủi, bảo y sĩ Mười, tiêm cho anh mũi hồi dương.
Y sĩ Mười bước lại, trên tay đã có xi lanh và ống thuốc. Anh Trần Văn Anh đưa tay:
- Thôi, đừng tiêm. Để dành thuốc cho anh Ba. Cho xin cốc nước trong.
Y sĩ Mười bưng ly nước cam đến. Anh lại khoát tay:
- Cho cốc nước lạnh.
Y sĩ Mười rót từ bình đông, mời anh một cốc nước trong. Anh hớp một ngụm súc súc, cố ngoẹo cổ nghiêng đầu nhổ xuống đất. Trông anh mệt nhoài. Ông Hồ Nghinh hối đưa anh nhanh ra bệnh xá, chỉ còn cách non cây số.
Đến trước cổng bệnh xá, không nghe tiếng anh rên. Để cáng xuống đất, anh vừa tắt thở, người bê bết máu nằm co trong chiếc võng dù màu cỏ úa. Chúng tôi nhìn anh lần cuối, xúm lại vội vã đưa anh ra đám đất cày phơi ải gần đó, mượn cuốc của bệnh xá đào đất chôn anh…
Đã bao nhiêu năm trôi qua, nhiều điều đổi thay, nhiều chuyện lãng quên, song mỗi lần nhắc đến những ngày làm báo vượt qua vô vàng gian khổ, ác liệt, là nhớ đến anh, người thủ trưởng thân yêu, là nhớ đến đồng đội ra đi không ngày trở lại…
H.D.L