Mỹ cảm thiền trong thơ Lê Thành Nghị
Bìa tập thơ Hoa vàng mấy độ của Lê Thành Nghị.
Nhà thơ Lê Thành Nghị đã in 6 tập thơ. Mùa thu năm 2024, ông lại cho in tập thơ thứ 7 của mình có tên Hoa vàng mấy độ. Ở tập thơ mới nhất này, người đọc vẫn nhận ra một thi sĩ Lê Thành Nghị với những bài thơ “tựa” vào thiên nhiên Đẹp và Buồn, một tiếng thơ lặng thầm, tài hoa, tinh tế, lịch lãm. Cái mới ở tập thơ có lẽ là thơ ông giờ đây lắng sâu hơn, đằm hơn, giàu chiêm nghiệm hướng nội và Thiền hơn. Mỹ cảm thơ Thiền hiện đại bàng bạc, ẩn hiện trong nhiều bài thơ…
Thơ Thiền là một bộ phận đặc thù, có một trường mĩ cảm đặc thù của văn học phương Đông, là sự kết hợp giữa thơ và Thiền, hướng đến Thiền vừa có giá trị về mặt tôn giáo, vừa có giá trị nghệ thuật.
Với thi nhân, thơ Thiền là một phương thức biểu đạt nhân sinh và tự tâm, bày tỏ nghĩ suy và cảm nhận về con người, cuộc đời và cõi nhân sinh, có tác dụng khai ngộ, thanh tịnh hóa tâm linh, đem lại cho người đọc sự cảm thụ thanh cao và hướng thiện.
Nếu tư duy thể loại thơ Thiền ở ba mặt: hình thức thể loại, tư duy thơ, đặc điểm ngôn ngữ, thì trong bài viết này người viết chỉ đề cập đến những đặc điểm thi pháp ngôn ngữ, tư duy thơ của nhà thơ Lê Thành Nghị.
1. Không gian nghệ thuật trong thơ Lê Thanh Nghị
Không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn của người viết, là một phương diện quan trọng của thi pháp; nó là phương tiện để tác giả gửi gắm những hình ảnh quan trọng mang ý nghĩa biểu tượng, chiếm lĩnh tâm hồn, tình cảm của chính họ.
Trong tập thơ Hoa vàng mấy độ là một không gian “đầy” thiên nhiên - một thiên nhiên đẹp đẽ, trong lành, mang đến cảm giác bình yên, cảm giác thanh tịnh. Đó là một thế giới của cỏ, cây, hoa, lá, gió, nắng, mưa, mây mù, trăng, sao, sông, suối, biển và đá… Rồi bốn mùa luân chuyển, rồi ngày đêm chuyển vần, rồi nóng lạnh đổi thay, rồi đêm tối ngày sáng, rồi sân ga đi và đến… tất cả đều là đối tượng thẩm mĩ của nhà thơ, nơi mở ra những liên tưởng, những ý niệm về cuộc đời, về cõi nhân sinh chúng ta đang sống. Thiên nhiên trong thơ Lê Thành Nghị trước hết thể hiện ở nhan đề các bài thơ. Hầu hết tên các bài thơ trong tập đều có sự hiện diện của thiên nhiên.
Mở đầu tập thơ là bài “Sương mù phía Sơn Tây”:
Hoa lên từ đất
Gió xuống từ trời
Hoa thì cứ thơm, gió thì cứ thổi
Gió đưa hoa tới
Cuối những chân mây!
Ở đây, “gió” và “hoa” đã có sự hòa nhịp duyên trong vũ khúc của đất trời, ấm áp và nhẹ nhàng, gợi nghĩ đến chữ DUYÊN của nhịp hải hà, gợi ra sự luân chuyển của mùa, từ đầu mùa hạ/ đến cuối mùa thu của một thiên nhiên bình yên và tĩnh lặng.
Trong bài “Lời của suối” lại có sự hòa nhịp của suối, triền hoa tím, mây, đá ngầm, lau xám, thác nước, chân mây… trong những ngày hạ và thu. Cả tập thơ có rất nhiều bài như thế. Vạn vật trong thơ Lê Thành Nghị có cơ hội gặp gỡ, kết nối, tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau, gợi lên những điều may mắn tốt đẹp. Nhịp thơ sáng trong, ngôn ngữ bình dị; sự sáng trong và bình dị của thấu hiểu, hòa cảm giữa con người với thiên nhiên, con người với nhịp đời, con người với con người.
Thơ Lê Thành Nghị có một trường thẩm mĩ riêng: thanh tịnh, nhẹ nhàng. Điều này cũng thể hiện qua màu sắc của thiên nhiên, một thiên nhiên trong ý niệm xanh của cỏ cây, của nước, của bầu trời, của những ngôi sao xanh, của mặt hồ, của vòm lá và màu trắng của mây, của cờ lau, của sương… Tất cả những màu xanh và trắng ấy mang lại cảm giác mát mẻ, nhẹ nhàng, trong trẻo, bình yên, tạo nên sự thư thái. Thơ Thiền thường tránh những màu rực rỡ. Trong tập thơ Hoa vàng mấy độ màu vàng với nhiều sắc thái, gợi nhớ miền Giác tuệ của Thiền được tác giả nhắc tới nhiều như: Hoa muồng vàng, hoa mướp vàng, hoa cúc vàng… Có khi là Vàng trong yên lặng (Sẽ đến mùa thu); Có khi là Những vạt hoa vàng miên man lối đi (Gió Tuy Hòa), Hoa vàng rơi trên vạt nắng (Vạt hoa vàng); có khi là Hoa muồng vàng trước cửa/ Vỡ nát hoàng hôn (Hoa vàng mấy độ); có khi là Hoa mướp vàng ngủ mê cuối dậu (Lối xưa), có khi là Vệt nắng buồn yên lặng chờ tôi (Vệt nắng buồn); có khi là viễn cảnh Cuối xa kia là vạt hoa vàng (Vạt hoa vàng); có khi là Ngoài kia bờ cây lá ủ sắc vàng (Buồm và gió)… Những sắc vàng đậm nhạt ấy gợi nghĩ đến những bức tranh lụa, những bộ pháp phục Phật giáo, những vầng hào quang từ những bức tranh tôn giáo với hình ảnh Phật Bà tọa thiền trên đài sen. Những sắc vàng ấy là dụng ý nghệ thuật của tác giả, nó mang lại vẻ đẹp của Thiền.
Không gian nghệ thuật trong tập thơ phần lớn là không gian vũ trụ cao rộng, thời gian (chiều thứ tư của không gian) vĩnh hằng, gợi lên những gì thật xa vắng, mênh mông, quạnh hiu, thanh lặng và buồn. Tập thơ có rất nhiều từ: vô biên, vô hạn, vô tận, ngày xưa, thiên thu, triệu năm, vĩnh viễn… Ở đó có Những bến vô biên, những bờ vô tận, những trời sao, ngàn sao, trời mây, non ngàn, đại dương, biển rộng …
Tiêu biểu cho loại không gian này là ở bài “Lặng yên nghe sóng vỗ”. Bài thơ đã “mở” ra một không gian vô hạn, một thời gian vô cùng ở mũi Hảo Vọng - mũi đất tận cùng của phía Nam châu Phi. Ở nơi ấy:
Một bên Ấn Độ Dương
Mũi Hảo Vọng ở giữa
Bên kia - Đại Tây Dương
Những con sóng đổ về từ triệu năm
Không một chút tư lự
Biển day dứt ngày ta đến
Một giọt nước cũng hóa thành vĩnh viễn
… Những ngôi sao xanh vô hạn trên đầu
Trước khung cảnh vũ trụ mênh mông, cao rộng ấy con người thật trở nên nhỏ bé, nhưng không mất hút. Con người đang trong tư thế hòa nhập.
Tất cả cảnh vật ấy không chỉ là “không gian khách thể” mà còn là “không gian tâm tưởng”. Trong không gian ấy, người thơ hiện ra như một lữ khách trong “mang mang trời đất”, mang một tâm trạng “thiên cổ sầu”; có chút buồn, chút cô đơn nhưng cũng thật bình yên. Vẻ cao cả, uy nghiêm, trầm mặc, sự thanh sạch yên tĩnh của thiên nhiên đưa con người ta vào cõi thanh bình, sâu lắng của những suy tư, tâm tưởng; có thể an ủi, xoa dịu, nâng đỡ tâm hồn con người.
Bên cạnh không gian của những sắc màu kia, là không gian hoài niệm. Cảm thức khi dòng sông ra đến cửa biển, con tàu đã chuẩn bị vào ga (Sân ga xa đã lấp lánh ánh đèn - Về với Chúa), như con thuyền đã nhớ bến (Đâu bến vô biên, bờ vô tận - Thu đến) gợi lên hành trình của chủ thể trước một chuyến “Trở về”- trở về quá khứ với những ký ức, những hoài niệm. Khi con người ta đã bước sang cái dốc bên kia của cuộc đời thì thường “nhìn lại” hơn là “nhìn tới” và khi nhìn lại, không ai tránh được những hoài niệm thiên cổ.
Tập thơ có nhiều nỗi nhớ với vẻ đẹp thuần khiết, với nỗi vọng niệm. Đó là nỗi hoài vọng về thế giới tuổi thơ trong trẻo, hồn nhiên, thương mến:
Như ngày xưa, những ngày xưa
Lon ton theo mẹ lên chùa khói nhang
(Vu lan nhớ mẹ)
…Về hỏi con suối nơi bạn bè ngày xưa ngụp lặn
Ai cất tuổi thơ của ta ở hốc đá nào?
(Suối nhỏ)
Đó là niềm vọng niệm về cố hương, luôn khắc khoải một nỗi nhớ, nỗi buồn xa quê. Với anh, cố hương là nơi li biệt, là nơi để quay về, bởi nơi đó là “miền cổ tích”, là “vùng bình yên”, có không gian tinh khiết của thiên nhiên, có những giá trị truyền thống nhân bản tốt đẹp, giúp anh thoát khỏi vòng xoáy của cuộc sống đô thị. Quê hương giờ đây là sự ngóng trông từ xa, với niềm thương nhớ vời vợi, với dấu ấn của một làng quê nghèo khó, nhọc nhằn:
Tháng ba tạnh cơn mưa dầm
Sương sớm trên chùm trập trội
Thương bếp nhà ai đang nguội
Cháy trong ký ức xa mờ
Như bông hồng thắp nến sau mưa
Đó là niềm thương nhớ cha mẹ, người thân, đặc biệt là hình ảnh người mẹ mất sớm trong ký ức của đứa con côi cút:
Mẹ đi về với ông bà
Hoàng hôn thiếp lặng từ nhà đến sân
Gió xa rồi đến gió gần
Mịt mù một cõi bụi trần con đi
Không gian nghệ thuật trong thơ Lê Thành Nghị Đẹp và Buồn, luôn thanh lặng, có chút quạnh hiu, xa xắng, đưa con người vào cõi thanh bình, sâu lắng của suy tưởng, trầm tưởng. Ở đó toát ra ánh sáng của sự thanh sạch, yên tĩnh, thanh lọc tâm hồn con người, một không gian đậm chất Thiền.
2. Tâm thức hướng nội trong thơ Lê Thanh Nghị
Thơ Lê Thành Nghị là thơ của một tâm thức hướng nội. Thơ ông không chỉ ghi lại những gì ông trải nghiệm mà cả chiêm nghiệm của một tâm hồn đa cảm hay suy tưởng.
Đó có thể là những nỗi buồn mênh mông về những xa vời; về tuổi xuân đã qua với Thuở đầu tiên: Muốn níu lại/ Mặt hồ xanh chói/ Cuối mùa thu lá trút tơi bời/ Muốn giữ lại trái tim đập vội/ Thuở đầu tiên xin chớ xa vời; về vắng vẻ, cô đơn: Thế gian vẫn rất đông/ Mà vắng vẻ; về nỗi buồn: Nỗi buồn/ Như hoa muồng vàng trước cửa/ Vỡ nát hoàng hôn; về ngày xưa: như mưa bay đi qua non/ Ngàn hạt trong ta hóa ký ức buồn, về cõi trần và kiếp người: Một cõi trần sao ngổn ngang đến vậy/ Một kiếp buồn sao dai dẳng, dường kia?.
Đã đến tuổi trải nghiệm đủ sự đời, khi đôi vai đã đổ bóng thời gian, mấy ai thoát khỏi vây bủa gần xa của nỗi buồn. Nhưng nỗi buồn trong thơ Lê Thành Nghị là buồn đẹp, buồn của một sự thanh thản, buồn của con sông chảy chậm, nỗi buồn tan lâu (Vũ Quần Phương). Lê Thành Nghị thường nói đến tuổi già trên đôi chân bước nặng: Gửi lại tuổi tác trên những bậc cầu thang, nói đến “mệt mỏi”: Cuối đông con đường lá rụng/ Tôi mệt mỏi mấy chục năm cuối đời, Buồm mệt lả trôi trong cô đơn, nói đến ngày tịch diệt Tôi cảm thấy con tàu đang chậm lại. Bình thản nhưng không thể nói là không lưu luyến, xao xuyến trước sự luân chuyển của thời gian, trước sự sinh diệt của đất trời. “Về với Chúa” là bài thơ ám ảnh những ai đã từng suy nghĩ nghiêm túc về sự sinh diệt kia.
Nhưng vượt lên trên tất cả là sự an nhiên. Trong thơ Lê Thành Nghị nhiều lần nhắc đến phù vân, phù du, mộng du, hư vinh, hư vô, hư thực, vô định, vô thường… Nhận ra bao sự luân chuyển vô thường, sự mong manh của kiếp người, nhà thơ chọn cách sống an nhiên, bình thản; một tâm thái lặng lẽ, sáng suốt, giữ được bản tính tốt giữa cuộc đời. Vì thế, vẫn luôn là một sự tự vấn thực tại: Ta đã già hay vẫn còn chưa? (Thu đến); vẫn luôn là một khát vọng nhập cuộc: Buổi sáng nghe tiếng chim gọi đàn/ Muốn sải cánh; Chân trời - những cánh đồng rực rỡ/ Con đường - những màu bão đã qua/ Mặt người - những nụ cười mờ tỏ/ Bàn chân - náo nức đường xa (Tiếng chim buổi sáng); vẫn luôn tràn đầy tình yêu cuộc sống: Ta cũng trẻ… như ngày xưa gió hát/ Như ngày xưa nắng nhạt bên hồ/ Như ngày xưa trời cao, mây biếc/ Cùng sông dài biển rộng… như ngày xưa... Trong những bài: “Chiều cuối năm”, “Đêm trên Quản Bạ”, “Ghi ở Tràng An”, “Lặng yên nghe sóng vỗ”… cũng một thế gian đẹp đẽ, thanh sạch, bình yên như thế: Chiều cuối năm/ Ong gọi về miền hoa dại/ Hương bay dẫn đến tóc dài/ Gió lay những chùm trái chín/ Nỗi buồn tưởng nhẹ như mây (Chiều cuối năm)…
Phải có cái TÂM thật AN mới có những dòng thơ như thế. Nhà thơ đã đạt tới an nhiên trải qua bao luân chuyển vô thường. Dù ý thức được sự trôi chảy, lưu chuyển của thời gian nhưng lòng vẫn đạt tới an nhiên, tới vô vi. Không có sự thấu hiểu giáo lí nhà Phật, thấu hiểu tinh thần Thiền Tông, sẽ không thể có những câu thơ thể hiện cảm nhận sâu sắc về lẽ vô thường đến thế. Tinh thần ấy cũng in đậm ở nhiều bài thơ của tập “Hoa vàng mấy độ”, trong đó có bài “Về với Chúa”, thể hiện sự thanh thản của một người đủ trải nghiệm. Nhà thơ hiểu rằng trong cái thế giới vô biên vô lượng thì cũng như vạn vật, kiếp người phù du không thoát khỏi cái quy luật “Sinh – Lão - Bệnh - Tử”:
Tôi cảm thấy con tàu đang chậm lại
Sân ga xa đã le lói ánh đèn
Nơi phải đến - một lần phải đến
Một chuyến dài - một chuyến tới vô biên”
Dân gian nói về tịch diệt: sống là gửi, thác là về, đạo Phật nhắc ta thuyết luân hồi: chết chưa phải là hết, còn tác giả “Về với Chúa” quan niệm cuộc ra đi là: Cõi trần gian xin cúi trả lại người và khi Giữa vô tận trái đất vừa mất hút/ Nhưng rất gần cả một trời sao… thì những mùa thu mắt lệ, tiếng còi tàu bơ vơ, gió hấp hối, những vì sao thiếp lặng, chẳng còn gây cho con người cảm giác cô đơn, khiếp sợ nữa mà giúp họ trở nên bĩnh tĩnh, thanh thản đón nhận, chấp nhận như một phần của cuộc đời mỗi con người. Hơn thế, “Về với Chúa” còn là một lời an ủi người ở lại: Xin đừng buồn, xin đừng héo như cây. Đó chính là tâm thế lạc quan khi đọc đến câu cuối của bài thơ này.
Và cứ thế tôi về với Chúa
Chuyến đi xa như thể mới bắt đầu
Giữa vô tận trái đất vừa mất hút
Nhưng rất gần cả một trời sao
Với tập thơ Hoa vàng mấy độ đậm mĩ cảm Thiền, nhà thơ Lê Thành Nghị đã đưa ta về một miền thanh bình, miên viễn của một tâm hồn thơ duy cảm, duy mĩ, hướng thiện. Đó là một thứ thơ Thiền hiện đại mang âm hưởng thâm trầm. Điều đó cũng tạo nên một nét riêng không trộn lẫn trong mặt bằng chung của thơ Việt Nam đương đại. Thơ ấy, chắc sẽ thường trú trong trái tim của người yêu thơ.
N.T.L