Thử tìm hiểu chợ Hàn xưa...- Phạm Hữu Đăng Đạt

22.04.2015

Thử tìm hiểu chợ Hàn xưa...-  Phạm Hữu Đăng Đạt

Ở Đà Nẵng, một trong những chợ xưa nhất là chợ Hàn. Xưa có danh xưng là chợ Hải Châu. Chợ Hải Châu dĩ nhiên nằm trên địa bàn làng Hải Châu. Về sự ra đời của làng Hải Châu, tương truyền, vào cuối thế kỷ XV, ở Thanh Hóa, có 42 tộc họ từ thôn Hiếu Hiền, xã Hải Châu, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, theo vua Lê Thánh Tông vào đánh Chiêm Thánh và chọn mảnh đất Hải Châu làm nơi lập nghiệp. Để tưởng nhớ quê cha đất tổ, họ thống nhất lấy tên xã cũ Hải Châu đặt cho xã mới của mình. Có người, có nhu cầu trao đổi hàng hóa là có… chợ. Đó là quy luật của tự nhiên từ bao đời nay. Chợ Hải Châu, vì vậy, đã ra đời. Về thời điểm, nhiều khả năng vào đầu thế kỷ XVI. Nghĩa là khoảng vài chục năm sau khi lập làng. Cũng như nhiều nơi khác, chợ bấy giờ là chợ quê, lèo tèo đôi ba túp lều tranh tre tạm bợ, chủ yếu buôn bán những mặt hàng nông sản, hàng thực phẩm của cư dân trong vùng.

Có lẽ tài liệu đề cập đến chợ Hải Châu lâu đời1 nhất là “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, vào cuối thế kỷ XVIII. Ông viết “Đò ở chợ Hải-Châu mỗi năm thuế 73 quan” 2. Số tiền này không nhiều nếu đem so sánh với tiền thuế đò ở các nơi khác. Ví dụ cùng thời điểm, “Đò Thanh-Hà (ở Hội An – TG) thuế 199 quan 5 mạch”, còn “Đò Thanh-Chiêm (Điện Bàn - TG) thuế 244 quan 5 mạch”… Nhìn chung, đến lúc ấy và nhiều năm về sau này, chợ Hải Châu vẫn là một trong những ngôi chợ nhỏ bé ở miền quê nghèo khó, với những con người lam lũ, một nắng hai sương, nhằm kiếm miếng cơm, manh áo hàng ngày. Rồi đến năm 1827, một lần nữa, chợ Hải Châu lại xuất hiện trong… tờ trát đề ngày 20 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 8 của Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại, nói về việc cạnh tranh giữa hai chợ Hải Châu và chợ Hà Thân, cũng như đề nghị lập lại chợ An Hải trên đất làng An Hải cho 7 xã hữu ngạn sông Hàn. Dù có sự cạnh tranh giữa hai chợ Hải Châu và chợ An Hải nhưng về cơ bản, đến năm 1831, chợ Hải Châu và làng Hải Châu không thay đổi mấy. Thế mới có sự kiện rằng khi Laplace đưa tàu Favorite ghé Đà Nẵng, có phái người đến chợ Hải Châu mua thực phẩm. Nhưng, do lượng người quá đông, lên đến 185 thủy thủ đoàn nên nhu cầu rất lớn. Chỉ trong vài ngày, tàu đã vét sạch bò, heo, vịt của các làng khiến thương lái phải vào Hội An mua thêm. Đó cũng là lý do khiến chính quyền đương thời cho rằng tàu “Favorite chứa cả đoàn quân” 3.

Có một vấn đề đặt ra là chợ Hải Châu biến thành chợ Hàn từ lúc nào? Quả thật, rất khó đưa ra lời giải xác đáng. Tuy nhiên, chúng ta có thể khắng định rằng khi chợ Hải Châu được gọi là chợ Hàn thì vai trò của chợ Hải Châu đã đổi khác. Từ chỗ là chợ của người dân trong làng cũng như các làng xã lân cận, chợ Hải Châu từng bước biến thành chợ lớn của cả tổng, cả huyện và phạm vi ảnh hưởng của nó ngày càng lan rộng. Nhiều khả năng mốc đánh dấu sự vươn lên mạnh mẽ của chợ Hải Châu là khi thực dân Pháp thiết lập nhượng địa với danh xưng là thành phố Tourane, tức La ville de Tourane, gồm 5 xã của huyện Hòa Vang là Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây. Đến năm 1901, nhượng địa được mở rộng thêm 14 xã ở hữu và tả ngạn sông Hàn. Bắt đầu từ đó, chợ Hải Châu được người dân địa phương gọi là chợ Hàn. Đơn cử như trong tập Đại Nam Nhất thống chí có ghi rõ “Chợ Hải Châu: ở huyện Hòa Vang; tục gọi chợ Hàn”4. Như vậy, đến thời điểm những năm đầu thế kỷ XX, trên văn bản, giấy tờ vẫn gọi là chợ Hải Châu, nhưng danh xưng dân dã chợ Hàn đã bước đầu đi vào sổ sách. Để rồi, nhiều năm sau đó, năm 1926, trong tác phẩm “De Saigon à Tourane”, tác giả người Pháp Guides Madroll cho biết “Le nom de Tourane est une prononciation approchée de Cho'Han « le marché du Han ". Le nom indigène est Dà-nang”. Đại ý tên gọi của “Tourane” phát âm gần giống như “Cho'Han” tức “chợ Hàn” 5.

Vậy, còn danh xưng chợ Hải Châu? Với người Pháp lúc bấy giờ, có thể họ cho rằng chợ Hải Châu là danh từ khá lạ. Họ quen với các danh từ sông Hàn, chợ Hàn. Vì thế, danh xưng chợ Hải Châu lúc ấy gần như chính thức nhường chỗ cho chợ Hàn. Từ đó về sau, rất hiếm khi người ta gọi chợ Hải Châu. Chợ Hàn đã trở thành tên gọi chính thức và quen thuộc của cư dân Đà Nẵng cũng như du khách xa gần. Hơn thế nữa, một tác giả viết về Đà Nẵng có uy tín là ông Võ Văn Dật trong tác phẩm “Lịch sử Đà Nẵng (1306 – 1975)” đã có lý khi viết rằng kể từ năm 1888, danh xưng Tourane trở thành chính thức, người Pháp chỉ biết có Tourane, người theo Tây học cũng quen gọi là Tourane. Và, thế là “Những địa danh cũ như xứ Trèm Trẹm (hay xứ Trẹm), xứ Giếng Bộng, xứ Rẫy Cu, xứ Bàu Lác… đang dần dần đi vào quên lãng. Những địa danh mới bắt đầu xuất hiện và dần dần trở thành quen thuộc đối với thị dân, chẳng hạn: khu chợ Hàn, khu Ngã Năm, khu Chuồng Bò, khu Cây Me, khu Lầu Đèn, Mười Hai Gian, Mười Bốn Gian, Bến Bà Quảng Triệu Hưng...”6. Thiết nghĩ, đó là chuyện hiển nhiên.

Và, cũng xuất phát từ sự lớn mạnh và tầm ảnh hưởng của chợ Hàn, nên theo tác giả Lê Cự Hải trong “Dạo quanh phố chợ Đà Nẵng” 7 thì năm 1900, chính quyền bảo hộ quyết định xây dựng chợ Hàn quy mô hơn, chỉnh chu hơn. Chợ Hàn được khởi công xây dựng vào năm 1900, khánh thành vào tháng gỉêng năm 1901. Chợ bấy giờ gồm hai dãy nhà song song, có bốn mặt tiền là Avenue du Musée, nay là đường Trần Phú, Quai Courbet nay là đường Bạch Đằng, Rue de la République nay là đường Hùng Vương, đường Verdun nay là đường Trần Hưng Đạo. Chợ lớp ngói, tường khá dày... Nhờ nằm ở vị trí đắc địa nên chợ Hàn mỗi năm một đông đúc. Để kịp thời cung cấp hàng hóa, nhu yếu phẩm, bấy giờ không có phương tiện nào thích hợp bằng giao thông đường sắt. Xuất phát từ yêu cầu ấy, những năm sau, thực dân Pháp tiến hành cho xây dựng nhà ga xe lửa trung chuyển có tên là La gare de Tourane marché, tức ga chợ Hàn, để vận chuyển hàng hóa các nơi đến chợ và hàng hóa từ chợ đi các nơi. Bấy giờ, chợ Hàn tọa lạc gần bờ sông Bạch Ðằng. Hàng hóa buôn bán ở chợ Hàn thời Pháp thuộc khá đa dạng, phong phú, kịp thời đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương cũng như quân lính và nhân viên chính quyền Pháp. Chợ được chia làm hai khu vực kinh doanh là trong chợ và ngoài chợ. Phía trong chợ là hệ thống các cửa hàng, cửa hiệu được xây dựng bằng gạch và chỉ cao một tầng, đằng trước để bày bán tất cả mọi loại hàng hóa, phía sau dùng làm kho hàng. Bên cạnh vải vóc, áo quần, hàng nông lâm thổ sản… thì mặt hàng tươi sống có thể nói là điểm mạnh của chợ Hàn xưa. Bên ngoài chợ chủ yếu hệ thống những ngôi nhà nằm dọc hai bên chợ Hàn, chuyên mua bán những sản phẩm tiêu dùng hoặc lương thực. Khi chợ có triển vọng phát triển một số thương nhân người Hoa, một số ít Ấn kiều và người Việt bắt đầu xây dựng những cửa hàng, cửa hiệu để kinh doanh, buôn bán. Trong đó, buôn bán sỉ nổi nhất, có tiềm lực nhất vẫn là những thương nhân người Hoa.

Dĩ nhiên, trong quá trình phát triển, chợ Hàn nhiều lần được trùng tu, sửa chữa, nhất là khi có mưa, bão. Vào thập niên 1950, gần mặt sau chợ Hàn có trạm xe Vàng, và một dãy ngang vệ sinh với tường gạch, lợp ngói, dựng sát bờ sông, có tên gọi là Cầu tiêu Ông Phước.  Có thể khẳng định, từ bấy giờ, chợ Hàn chính thức trở thành ngôi chợ lớn nhất của Ðà Nẵng. Với một diện tích rộng rãi, bên trong được phân chia từng khu vực theo các mặt hàng kinh doanh. Khu hàng vải cùng với khu kim hoàn cho thấy sự hưng thịnh của khu chợ này. Khu hàng mã, nằm bên cánh trái, đi sát với khu cau trầu, đèn nhang là một nơi sạch sẽ, thoáng mát... Năm 1989, cũng xuất phát từ yêu cầu phát triển không ngừng của chợ, chính quyền tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cũ quyết định san bằng chợ cũ, xây chợ mới hoàn toàn gồm hai tầng khang trang với diện tích 28.000m², gần 600 gian hàng cùng 36 sạp xung quanh chợ cung cấp những mặt hàng sản phẩm từ 30 nhóm ngành hàng khác nhau. Kiến trúc chợ đẹp và thoáng, cách bày trí hàng hóa gọn gàng. Chợ Hàn, với ưu thế sẵn có, với bề dày truyền thống, vẫn giữ vị trí là chợ trung tâm của thành phố, không những là nơi họp chợ của bà con mà còn là địa điểm tham quan, du lịch khá hấp dẫn của khách trong và ngoài nước mỗi khi ghé thăm thành phố nằm bên bờ sông Hàn thơ mộng này.

 

 Chú thích

(1 ) Lưu Anh Rô trong bài viết “Buôn bán tại Đà Nẵng xưa” đăng trên báo Đà Nẵng cuối tuần số ra ngày 19-12-2010 có viết “Sự sầm uất của chợ Hải Châu thể hiện qua một đoạn ghi chép của Hòa thượng Thích Đại Sán, vào ngày 8-6-1695: Chợp ngủ chừng nửa giờ, đã thấy phương Đông sáng bạch. Khoác áo choàng đứng dậy thấy sóng yên nước lặng, té ra thuyền đã vào vũng Đà Nẵng... Hai bên bờ, nhà cửa đông đúc, người đi đường xôn xao, kẻ gánh người gồng, người ta đã đi chợ sáng..” Và  trong “Thiên Nam tứ lộ đồ thư” được lập vào thế kỷ XVII, ghi rõ lộ trình từ đèo Hải Vân vào Quảng Nam như: “Ăn thì ở núi Hải Vân, trọ thì ở Chân Đằng, ăn thì ở chợ Hàn Quảng (tức chợ Hàn), trọ thì ở Tú Cú, ăn thì ở kho Hội An...”. Thế mới biết vai trò của chợ Hàn là như thế nào”. Ở lời dẫn thứ nhất, tác giả có dùng 3 chấm (…) với ý đồ rút ngắn đoạn văn. Nhưng khi xem lời dịch Hải ngoại ký sự của Viện Đại học Huế năm 1963, trang 146 – 147 thì hóa ra nhà sư chỉ sự sầm uất của… Hội An chứ không phải của Đà Nẵng. Còn ở lời dẫn  thứ hai thì trên “Thiên Nam tứ lộ đồ thư” hoàn toàn không có các chữ “chợ Hàn Quảng”. Dù gì đi nữa, theo chúng tôi, thời ấy, chợ Hải Châu còn là chợ quê, mãi lực mua bán không cao nên  không thể gọi là sầm uất.

(2)  http://maxreading.com/sach-hay/phu-bien-tap-luc/quyen-iv-noi-ve-cac-ngach-thue-va-tien-te-40022.html 

(3) Taboullet. La gest Francaise en L'indochine. – Paris, 1956. – Tr. 317. Dẫn Theo Võ Văn Dật. Lịch sử Đà Nẵng 1306 – 1975. – Nxb. Nam Việt, San Jose, California, tháng 1 năm 2007. – Tr.154.

(4) Đại Nam Nhất thống chí, T.2, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1992. – Tr. 377

(5) Guides Madroll: “De Saigon à Tourane”. -  Libraire Hachette, Paris.- 79, Boulevard Saint-Germain, 1926. - Tr. 6

(6) Võ Văn Dật. Lịch sử Đà Nẵng (1306 – 1975). Nam Việt xuất bản. San Jose, California, 2007.- Tr. 294.

(7) Lê Cự Hải. Dạo quanh phố chợ Đà Nẵng. http://www.luanhoan.net/danang/htm/danang07_03.htm. Dù tác giả không đưa ra nguồn tư liệu khi khẳng định mốc thời gian ấy nhưng theo chúng tôi, điều đó có cơ sở vì đến năm 1904, vẫn còn 1 bức ảnh chụp đường Rue de la République. Chợ Hàn cũng xuất hiện trong một phần bức ảnh, chứng tỏ nó đã được xây dựng trước đó khá lâu.

P.H.Đ.Đ