THƠ TRANH ĐẤU CỦA HỌC SINH SINH VIÊN XỨ QUẢNG 1954 – 1975 - HỒ THẾ HÀ

31.10.2012

THƠ TRANH ĐẤU CỦA HỌC SINH SINH VIÊN XỨ QUẢNG 1954 – 1975 - HỒ THẾ HÀ

Trong những năm dân tộc Việt Nam đấu tranh chống Mỹ cứu nước kiên cường và anh dũng, văn học - với tư cách là hình thái ý thức xã hội và thẩm mỹ đặc thù đã đồng hành cùng lịch sử để trở thành vũ khí chiến đấu có hiệu quả, trở thành sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt là của tuổi trẻ cả nước. Cùng với diễn trình hiện thực lịch sử và đất nước bị chia cắt hai miền, cùng với tính phức tạp của thế cài răng lược giữa ta và địch ở miền Nam, đã hình thành nên những vùng, miền văn học đa dạng và đa tính chất đồng thời tồn tại. Về văn học công khai, hợp pháp và chính thống của dân tộc, hiển nhiên là nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và nền văn học đấu tranh giải phóng ở miền Nam mà thành tựu của chúng đã được thừa nhận là những giá trị tinh thần và nghệ thuật lớn ngang tầm với cuộc sống và thời đại lúc bấy giờ, khi chúng giải quyết hài hòa và hợp qui luật mối quan hệ giữa chủ thể thẩm mỹ và khách thẻ thẩm mỹ trong từng thời khoảng trọng đại của cuộc sống.

            Bên cạnh đó, do tính chất phức tạp về địa lý, xã hội và chính trị ở miền Nam giai đoạn 1954 - 1975, nên bên cạnh hai nền văn học chính thống vừa nêu, còn có các bộ phận, khuynh hướng và dòng văn học khác tồn tại với những tính chất, đặc trưng, chức năng và sự phân hóa khác nhau, đó là văn học hợp pháp của chính quyền miền Nam (bao gồm văn học phản ánh hiện thực đời sống xã hội nói chung, văn học tâm lý chiến chống cộng, văn học hiện sinh, văn học nhân vị...), văn học yêu nước, phản chiến và văn học đấu tranh chống Mỹ - Ngụy của học sinh sinh viên đô thị miền Nam.

            Trong bài viết ngắn này, chúng tôi muốn đề cập đến dòng văn học đấu tranh của học sinh sinh viên đô thị miền Nam trong những năm xuống đường sục sôi ngọn lửa chiến đấu và khát vọng hòa bình trên quê mẹ Việt Nam. Và cũng chỉ xin giới hạn ở những thành tựu thơ giai đoạn 1954 - 1975 của các tác giả xứ Quảng (Quảng Nam - Đà Nẵng) trong giới hạn sự hiểu biết và tư liệu hiện có của chúng tôi.

 

1. Quan niệm và diện mạo chung

Khi nói đến chủ thể sáng tạo văn học của một vùng đất nào đấy, cụ thể ở đây là xứ Quảng, quan niệm của chúng tôi là bao gồm những tác giả sinh ra và lớn lên ở xứ Quảng, học tập, công tác và sáng tác trên quê hương mình. Bên cạnh đó, là các tác giả từ các vùng quê khác đến công tác và sinh sống, sáng tác ở xứ Quảng. Những tác giả là học sinh, sinh viên xứ Quảng ly hương, sống ở các vùng quê khác, nhưng có đi về, có tác phẩm liên quan đến quê hương và phong trào đấu tranh yêu nước xứ Quảng và các  đô thị khác cũng được xem là tác giả xứ Quảng. Đặt trong phong trào chung của thơ ca đấu tranh của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam lúc bấy giờ, đặc biệt là từ 1960 trở đi, thì quả thật, thơ ca của họ có sự liên kết và quan hệ mật thiết, làm thành diện mạo và giá trị chung, hỗ tương và chuyển hóa thành sức sống nghệ thuật, văn hóa và được quần chúng độc giả đón nhận nồng nhiệt, tạo ra hệ thi pháp thống nhất nhưng đa dạng, tiêu biểu cho dòng văn học yêu nước, mang tính tiên phong, tinh thần dân tộc và tính chiến đấu, tính sử thi cao. Với quan niệm về tiêu chí như vậy, chúng tôi có thể nhận xét một cách khái quát rằng thơ ca tranh đấu, yêu nước của học sinh sinh viên xứ Quảng quả là phong phú, đa dạng và mang tính nhân văn cao, thể hiện tư tưởng xã hội và lập trường xã hội cũng như bản sắc văn hóa xứ Quảng rất đặc trưng, tiếp nối được mạch văn thơ yêu nước và thơ tù của các nhà thơ – chí sĩ yêu nước tiền bối như Hoàng Diệu, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phạm Phú Thứ, Phan Khôi, Phạm Phú Tiết... Và trong số đó, có những người đã chịu tù đày gian khổ nơi "địa ngục trần gian" Côn Đảo, Gia Định, Chí Hòa cũng như các lao ngục khác như Phan Duy Nhân (tù Côn Đảo), Chinh Văn (tù Gia Định), Nguyễn Công Khế (lao Kho Đạn – Đà Nẵng),  Phan Viên Hoài (ngục Đà Lạt), Hoàng Thoại Châu (tù Chí Hòa, Gia Định và Côn Đảo... Và trong số họ, có người đã bị địch thủ tiêu hoặc anh dũng hy sinh, trở thành liệt sĩ và những danh hiệu cao quý khác như Phan Trước Viên (liệt sĩ)...

Chỉ riêng khoảng hơn 10 năm cao trào từ 1960 trở đi, nếu kể những người làm thơ yêu nước xứ Quảng nhưng không có mặt trong các diễn đàn đấu tranh của học sinh và sinh viên các đô thị, cũng như tác phẩm của họ chưa có cơ hội in ấn trên các Báo và các Tập san tiến bộ của phong trào lúc bấy giờ mà chúng tôi kịp tìm hiểu thì con số lên đến bốn, năm chục người. Ở đây, chỉ kể những tác giả hạt nhân, chủ lực của phong trào, chúng ta có thể điểm danh những tên tuổi nổi bật mà sau này họ trở thành những tác giả chuyên nghiệp, có đóng góp thành tựu rất lớn cho thi ca và các lĩnh vực báo chí, văn nghệ cả nước. Đó là Vũ Hạnh, Nguyễn Công Khế, Đông Trình, Phan Duy Nhân, Phan Trước Viên, Tần Hoài Dạ Vũ, Từ Huy, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Văn Phụng, Hoàng Thoại Châu, Huỳnh Văn Hoa, Phan Viên Hoài, Hoài Hương, Chinh Văn, Nguyễn Đông Nhật, Vũ Đức Sao Biển, Minh Quân, Nguyễn Thiên Trung, Hoàng Văn Trương...Trên dưới 15 năm mà xứ Quảng đã đóng góp cho phong trào những gương mặt thi ca sáng danh ấy, phải nói là hùng hậu và giá trị, đáng được văn học sử quan tâm nghiên cứu.

Sáng tác của những tác giả nói trên xét về thi tập, thì mỗi người đều có từ 2 đến 3 tập trở lên. Tất cả đều thống nhất nhưng đa dạng về bút pháp, tạo thành dòng thơ ca yêu nước và tiến bộ, "vị nhân sinh", sục sôi tinh thần phản kháng, tiên phong giữa các đô thị và vùng tạm chiếm miền Nam. Trong đó, một bộ phận lớn tác phẩm được đăng ở các Báo và các Tạp chí công khai và bán công khai lúc bấy giờ như: Đất mới, Sinh viên, Tiếng gọi học sinh, Đối diện, Hồn trẻ, Tuổi hoa, Sinh viên Sài Gòn, Sinh viên Vạn Hạnh, Người Việt, Tự quyết, Tổng hội sinh viên Huế, Bách khoa, Văn, Ngày mới, Mã thượng, Đất tổ, Độc lập, Dân chủ, Việt Nam, An lạc, Giữ thơm quê mẹ, Thiện Mỹ, Văn nghệ, Nghệ thuật, Tranh đấu, Kết hợp, Phụ nữ Phật tử, Phổ thông, Thời nay, Tân phong, Đất nước, Văn Sử,..., trong đó, có các Tạp chí tiến bộ ở nước ngoài như: Thế hệ, Việt (Canada), Sứ mệnh (Nhật)...

Như vậy, về mặt tác dụng và thành tựu của phong trào cả nước nói chung và các thành phố khác nói riêng, thơ tranh đấu của học sinh, sinh viên Xứ Quảng đã thực sự trở thành vũ khí đấu tranh cách mạng, là chân lý và lẽ phải, là tiến bộ và chính nghĩa, là cội nguồn của tình yêu nước và căm thù giặc. Nó thực sự là tiếng nói kêu gọi kết đoàn, phá tan mọi bạo tàn và âm mưu hèn hạ của kẻ thù đế quốc và tay sai, để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và những giá trị thiêng liêng, cao quý của nhân dân Việt Nam. Nó trở thành một bộ phận hữu cơ, hỗ tương nhau làm thành sự đa dạng, phong phú cho nền văn học yêu nước, cách mạng của cả nước và đặc biệt là của văn học miền Nam trong khói lửa ngút trời, đúng như Trần Bạch Đằng đã nhận xét: "Văn nghệ học sinh sinh viên các đô thị miền Nam thời chống Mỹ là một mắc xích trong tổng thể nền văn nghệ dân tộc Việt Nam. Nó xứng đáng ở vị trí ấy bởi vì nó đã chứng minh và nâng cao tâm hồn Việt Nam trong một giai đoạn, bởi nó kế thừa tinh anh của những người đi trước, của chiều dày văn hóa của Tổ Tiên và trên tất cả, bởi nó là Việt Nam, là hơi thở của lớp trẻ Việt Nam" (6, tr.14).

Đã là những giá trị thì nhất định nó phải hội đủ những điều kiện cần và đủ của một bộ phận trong nền văn học chính thống của dân tộc, đồng hành và cộng hưởng nhau để làm nên những giá trị thống nhất nhưng đa dạng, xét ở quan niệm nghệ thuật về con người, về không gian và thời gian nghệ thuật, về ngôn ngữ và giọng điệu, về các hệ thống biểu tượng và biểu trưng, về bản sắc và phong cách...Và điều kiện quan trọng nữa, đó là sự tiếp nhận nồng nhiệt của công chúng độc giả. Họ xem đấy là sức mạnh tinh thần của nhân dân và tuổi trẻ trong những năm xuống đường đấu tranh trực diện với kẻ thù. Đó chính là diện mạo riêng bên cạnh diện mạo chung của văn học cách mạng và yêu nước Việt Nam giai đoạn chống Mỹ, cứu nước. Trong khuôn khổ của một tham luận, theo đó, chúng tôi xin đề cập đến nội dung của dòng thơ tranh đấu đô thị của học sinh sinh viên xứ Quảng giai đoạn 1954 - 1975 ở vài khía cạnh đặc trưng thi pháp.

 

2.       Con người, khát vọng và hiện thực tranh đấu trong thơ

Hiện thực bao trùm trong thơ tranh đấu xứ Quảng là hiện thực trực tiếp hoặc gián tiếp chống lại mọi âm mưu thâm độc và tàn bạo của kẻ thù. Trước hiện thực ấy, cùng với nhân dân, mỗi nhà thơ - bằng nhiều hình thức khác nhau đã có những hành động cụ thể để góp phần khẳng định tinh thần yêu nước và thái độ chính trị không đội trời chung của mình với kẻ cướp nước và bán nước . Cụ thể, đó là sự thách đố với mọi sự đàn áp, đốt cháy xe Mỹ và các cơ quan lãnh sự của Mỹ, có khi là cuộc biểu tình công khai hoặc biểu tình thầm lặng lên án chiến tranh xâm lược và diệt chủng, chiến đấu trực diện với nhiều hình thức trên đường phố, có khi là những đêm lửa trại "hát cho đồng bào tôi nghe", chống bầu cử độc diễn, chống hành vi độc ác và tàn bạo đối với nhân dân vô tội của Mỹ Ngụy.Từ những hiện thực đấu tranh trường kỳ ấy, Phan Trước Viên đã kịp thời ghi lại bằng tiếng nói căm hờn và nhân bản:

                        Ôi những dòng sông quê hương anh dũng

                        Cỏ viền xanh từng vết sử thăng trầm

Trăm con lạch chở tình quê muôn ngả

                        Tên xóm làng là tên những chiến công

 

                        Mỗi ngọn cỏ xanh một niềm hy vọng

                        Trên từng nấm xương liệt sĩ, anh hùng

                        Ta đứng thẳng nhìn mặt trời dậy sóng

                        Mặt sông trào theo nước thủy triều lên

                                                     (Tiếng hát muôn đời )

Hoàng Thoại Châu tâm tình và đối thoại với người yêu bằng những lời lẽ hùng hồn nghi vạ kẻ thù đánh cắp mọi tự do, hạnh phúc của con người để chứng minh rằng chúng ta không cúi đầu cam chịu mọi áp đặt của những kẻ bất lương và phản ứng lại sự bàng quang của những người cam nhục mất nước, sống trong xa hoa, vô nghĩa với chính mình:

                        Hãy cho phép anh có quyền nghi vạ

                        Cái xã hội này qua mỹ ngữ tự do

                        Nếu em thấy những chiếc xe nhà bóng lộn, những

                     cặp trai gái măng tơ

                        Ở thành đô trong những chiều thứ bảy,

                        họ sống,

                        họ xa hoa tuồng như không giới hạn, bên cạnh đó

                        những em bé đánh giày áo không đủ ấm,

                        quần thiếu che thân

                        những lão ăn mày chìa tay bên lề đường van xin,

cầu khẩn,

những cô cậu nhà giàu lãnh đạm đi nhanh

thì xin em

hãy cho phép anh có quyền nghi vạ

những bảng hiệu: công bằng, bác ái, tương thân...

                                                            (Em cứ bảo)

            Bài thơ Đôi mắt sáng nhìn lên của Hoài Hương đã thực sự tố cáo tội ác của kẻ thù gieo xuống quê hương ngùn ngụt lửa hung tàn và sức sống của những con người phản chiến: " Ngày hôm ấy cả quê mình quyết liệt - Dân xuống đường ơi ới gọi nhau đi... Chị bán cháo, anh phu hồ, bác công nhân hải cảng – Hôm trước sống bình yên - Hôm nay làm cách mạng - Toàn phố phường là đội ngũ tiền phong - Những mẹ già nước mắt thấm quanh tròng - Run rẩy thét: Tự do, Hòa bình, Cơm áo". Sự hy sinh của những con người yêu nước và căm thù giặc trở thành bão lửa xung phong. Vẫn còn đây đôi mắt sáng nhìn lên với niềm tin kiêu hãnh:

                                    Anh nắm chặt tay em

                                    Như nắm vững tương lai rạng rỡ vô cùng

                                    Dù đôi mắt mất đi nhưng kiêu hùng vẫn đó

                                    Thành Đà Nẵng – Trái tim ngời máu đỏ

                                    Đứng muôn đời giữa  núi Ngũ Hành Sơn

                                    Dù gian nan, tủi nhục vẫn không sờn

                                    Cả chín phố phường ngả trong lòng Tổ quốc

                                    Anh sẽ đưa em về

                                    Giữa công trường Độc lập

                                    Ngồi yên nghe cây cỏ ngát hoa đời

                                    "Tổ quốc mình còn đẹp mãi em ơi"

            Thơ tranh đấu xứ Quảng không chỉ phản ánh hiện thực, mà cao hơn là bình luận và triết luận về hiện thực. Sự bắt đầu của lòng yêu nước đồng nghĩa với sự bắt đầu của hy vọng và tin yêu cách mạng mà mình có phần trong ấy. Nguyễn Công Khế đã bắt đầu có sự suy tư, trăn trở về cuộc đời và lẽ sống: "Anh hiểu cuộc đời có lẽ là nơi bắt đầu - nơi mẹ anh ngồi tựa cửa, trong những mùa đông 55, 56 thật dài và thật lạnh - nơi sự đợi chờ của con người đã hóa những mũi tên - anh ra đi từ một mái trường - không phải là nơi dạy cho anh tình yêu - nhưng là nơi khắc vào trái tim anh  những nỗi khổ đau hận thù chín đỏ - để anh biết chính bản thân mình và cuộc sống". Vậy là mọi sự bắt đầu đều đồng nghĩa với sự giác ngộ cách mạng và đấu tranh, chống lại những kẻ mặt người dạ thú:

                                    Lại là một sự bắt đầu

                                    nơi bóng tối làm cho ta  nhận rõ tia lửa chớp

                                    nơi hạnh phúc phải ra đi từ nỗi khổ đau

                                    nơi con người sinh ra

                                    vùng đất gắn cuống nhau

                                    bầu trời ghi tiếng khóc

                                    nơi ta nhận ra chiếc hôn đầu tiên của những người thân

                                    từ khi ta thành con  người có da có thịt

                                    đặt đôi bàn chân đặt khát vọng đầu tiên lên đời

                                    có lẽ vì thế

                                    tất cả dường như vì thế

(Sự bắt đầu)

Hiện thực nóng bỏng và ngày càng ác liệt do tội ác của kẻ thù gây ra đã thôi thúc con người đứng lên chiến đấu. Thơ học sinh sinh viên xứ Quảng là tiếng nói trực tiếp ngợi ca và cổ vũ, bày tỏ lòng tin tất thắng vào tương lai. Con người trong chiến đấu thể hiện được tầm vóc và lý tưởng chính nghĩa của mình một cách sâu sắc. Cái tôi trữ tình nhập vai của nhà thơ đã nói lên tiếng nói của nhân dân, đất nước để tố cáo tội ác của những kẻ bất lương và  hy vọng vào sức mạnh chính nghĩa của những con người yêu nước bình dị mà kiên trung. Trần Phá Nhạc đã liên hệ cuộc sống của người dân Hải Phố từ quá khứ đến hiện tại để thấy những gì gần gũi mà thiêng liêng: "Hải Phố - quê hương tôi đứng lên cùng Cách Mạng - cờ đấu tranh phất phới gió bưng biền - mẹ Xóm Mới hun lửa hồng kháng Pháp - đường Hội An dồn dập bóng người đi - cha Cửa Đại trong những ngày tăm tối - mắt vẫn sáng tuyệt vời mơ đến môt ngày mai".Đó là trong quá khứ. Hiện tại càng thôi thúc những con người Hải Phố tiến lên làm tròn trọng trách với quê hương:

Hải Phố quê tôi ngày tháng tuyệt vời

đang đứng lên tiếp lời lịch sử

dòng sông đó nuôi thù dâng mắt biếc

khói nhà đèn lên

ấm cả tương lai

dân phố ta

giàu mạnh

dân phố ta hùng cường

có con bé thẹn thùa chân nai nhỏ

tà áo trắng

bay ngang đời mới thức

mắt mơ mòng thương tiếc lá me xanh

xuống sau vườn cho mẹ ngắt ngọn trầu thơm

Để rồi Hải Phố lại hồng hào hy vọng:

Hải Phố quê hương tôi

 một nghìn đêm mơ chỉ có một ngày

 (Hải Phố, quê hương tôi ngày tháng tuyệt vời)

Thơ tranh đấu đô thị xứ Quảng phản ánh được thế cài răng lược độc đáo trong đánh Mỹ. Đó là điều kiện để hình thành chiến tranh du kích và ba mặt trận tiến công của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó, phong trào đô thị và nông thôn có tác dụng hỗ trợ đắc lực cho cuộc kháng chiến thắng lợi. Thế trận giữa lòng dân là hình thái chiến tranh kỳ diệu mà kẻ thù phải hoảng hốt, khiếp sợ.

Từ Huy, qua bài thơ Quê hương ta xứ Quảng anh hùng đã nói lên thế trận cách mạng ấy một cách cụ thể như "Ngũ Hành Sơn vẫn sừng sững uy nghi - Như khí thế của người dân đất Quảng - Xứ sở tôi hun đúc những anh hùng - Nào Hoàng Diệu, Trần Cao Vân, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng -  Nhân dân tôi vẫn không ngừng cách mạng - Tổ quốc tôi truyền thống chống xâm lăng - Đã bao lần thực dân Pháp hung hăng - Vẫn thảm hại trước ngọn cờ quyết chiến - Từng bờ tre cũng xông ra tiền tuyến - Bằng ngọn chông vót nhọn chí căm thù - Thân lúa cằn vẫn rắn rỏi nghìn thu - Nuôi lớn mãi những anh hùng dũng sĩ". Và một quyết tâm sắt đá như chính con người xứ Quảng bao đời:

 Còn quân giặc là còn tranh đấu mãi

 Như nhân dân như Tổ quốc hôm nay

 Muôn bàn tay và hàng triệu bàn tay

 Đang chống giữ uy nghi như Đá Dừng, Hòn Kẽm

 Ơi quê hương, thơm Chiên Đàn ngọt lịm

 Ơi quê hương xứ Quảng đất anh hùng

 Muôn người dân cùng một ý thức chung

 Kháng chiến trường kỳ đuổi quân cướp nước

 Gian khổ không hề nguy nan không lùi bước

 Vách sắt thành đồng của Tổ quốc thân yêu.

Nhu cầu hòa bình, độc lập đối với mọi người, đặc biệt đối với tuổi trẻ là tối thượng. Vì vậy, bằng bất cứ giá nào, bằng phương tiện gì, bằng hình thức đấu tranh nào có thể, tuổi trẻ đã thể hiện tinh thần chiến đấu của mình một cách cao cả và quyết đoán. Và trong số họ, biết bao người chịu tù đày, gian khổ, hy sinh. Đó là chứng chỉ thời gian của lòng yêu giống nòi Hồng Lạc, là sức mạnh đứng trên đầu thù để lập chiến công. Những vần thơ này, nói như nhà nghiên cứu văn học Trần Hữu Tá: "nếu đặt trong mạch phát triển của thơ ca dân tộc, rõ ràng mảng thơ đấu tranh của sinh viên học sinh ở các thành thị miền Nam trước năm 1975 đã nối tiếp rất đẹp dòng chảy của thơ ca Xô viết Nghệ Tĩnh, thơ thời kỳ Mặt trận dân chủ và Mặt trận Việt Minh, của truyền thống thơ tù - một hiện tượng thơ độc đáo, kỳ diệu của Việt Nam" (6, tr.19). Nguyễn Đông Nhật đã thấy tư thế của những con người đi tới, vượt mọi chướng ngại để chiến thắng:

Chúng tôi sẽ chết không im lặng

Dù bóng tối còn trộn đầy hơi thở

Trong đêm, tiếng chân đi xa mùa đông

Sẽ trả lời trước những vật cản

(Mùa đông)

Nguyễn Thiên Trung cũng cùng chung nhịp đập ấy của Nguyễn Đông Nhật khi cùng thanh niên biểu tình xông lên trước hàng hàng biểu ngữ, "khắc giữa tim lời ca chiến thắng" thành lực lượng tiến công:

                        Chúng ta đã lớn lên từ Điện Biên anh dũng

                        Bài hùng ca rực máu trên môi

                        Tay đồng thép bẻ gông xiềng tiến tới

                        Một trăm năm bóng tối vây đời

                        Òa sáng lửa một mùa thu mới

                        Hôm nay ta đứng lên

                        Đi tiếp máu reo vang lời lịch sử

                        Rừng tay cao biểu ngữ kéo ngang đường

                        Ôi những con đường thân yêu ghi dấu

                        Đã chở từng bước chân

                        Kết liên thành trì ý chí

                        Của những con người Việt Nam

                        ...Lồng lộng hiên gang một bóng cờ

                        Ôi thương mến hàng trăm đô thị

                        Kết đoàn sức mạnh liên công

                        Như những dòng sông

                        Ôm thắm thiết nhau bên bờ Đông Hải

                        Trui gan nồng lửa thép dựng đời mai

                        ...Đòi cho được

                        Hòa bình, Độc lập, Thống nhất, Tự do

                                                (Hàng hàng biểu ngữ đi lên)

Đứng ở vị trí hiện tại, đối sánh với quá khứ và mơ ước đến tương lai là cảm thức thường trực trong thơ học sinh sinh viên xứ Quảng. Đó là biện chứng của lịch sử mà cũng là biện chứng của tâm hồn để ta nối liền ta trong chiều rộng của không gian và chiều dài của thời gian, thể hiện dáng đứng và tâm thế của những con người luôn tiến lên phía trước, đối mặt với quân thù. Hoàng Văn Trương – người con của Thăng Bình, Quảng Nam đã ý thức sâu sắc sự chuyển giao thế hệ để làm con người Việt Nam vững chắc và toàn vẹn ấy:

                        Cha chỉ để cho con dòng máu đỏ

                        Và trái tim ấp ủ giấc mơ hồng

                        Dòng máu đỏ thời xưa cha kháng Pháp

                        Truyền cho con niềm kiêu hãnh muôn đời

                        Máu, máu đỏ nét son màu lịch sử

                        Con dặn lòng viết đẹp tuổi xanh tươi

 

                        Máu mãi chuyền trong con dòng quật khởi

                        Thơ vẫn còn tiếng thét lớn xung phong

                        Mỗi bài thơ cả một rừng biểu ngữ

                        Vạn lời hô cứu nước dội non sông

                                                                        (Dòng máu đỏ)

Vũ Đức Sao Biển đồng hiện người mẹ Thu Bồn trong buổi chiều hờn căm quân cướp nước và bán nước: "Lời đau trên ánh mắt - Tủi hổ-Bữa cơm chiều hai bóng - Ngọn đèn vàng lung lay". Một nỗi niềm xót nghẹn, bao căm thù dâng đầy:

                                    Đêm không bao giờ sáng

                                    Trên quê hương điêu tàn

                                    Mái hiên đầy vết đạn

                                    Máu loang giòng Thu Bồn

                                    Mẹ già khơi chuyện cũ

                                    Con cúi đầu xót thương

                                                            (Mẹ Thu Bồn)

Tần Hoài Dạ Vũ sáng tác nhiều bài thơ với những chủ đề cụ thể để nói lên hiện thực khắc nghiệt ở miền Nam những năm chống Mỹ ác liệt mà ở đó, biết bao con người dũng cảm xuống đường làm cách mạng, trái lại, có những kẻ cúi đầu làm nô lệ, tay sai. Không thể làm người mà không biết căm thù tội ác của đế quốc gieo rắt trên quê hương mình. Anh đã phản biện sự thật tệ hại ấy bằng bài thơ gửi một người bạn xưa yêu nước, giờ phản bội đi theo giặc với những lý lẽ thâm thúy và nồng nhiệt tinh thần phản kháng để khẳng định chân lý của cách mạng:

                        Con đường anh đi xa lìa nòi giống

                        Là giàu sang thế quyền đổi mạng dân đen

                        Là hờn căm đang vây đỏ chân trời