VI THUỲ LINH TỪ MỘT GÓC NHÌN

29.05.2012

VI THUỲ LINH TỪ MỘT GÓC NHÌN

(Nhân đọc tập thơ thiếu nhi "Chu du cùng Ông nội” của Vi Thuỳ Linh, NXB Kim Đồng, tháng 7/ 2011)

PGS.TS. Trần Thị Trâm

Năm tập thơ trước (Khát, Linh, Đồng Tử, ViLi in love, Phim đôi - Tình tự chậm) của Vi Thuỳ Linh tôi đều đọc nhưng dè dặt, không bàn luận bởi vì giữa chúng tôi là khoảng cách của hai thế hệ. Vẫn biết, cái mới ra đời rất khó khăn ở một số ít người thôi, nên với thái độ trân trọng tôi luôn lặng lẽ dõi theo từng bước đi của cô.

Có thể nói, tài năng của Vi Thuỳ Linh phát lộ khá sớm. Năm 19 tuổi (1999), cô sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã có trong tay tập Khát, thi phẩm ngay lập tức đã tạo được dư luận rộng rãi và trái chiều trong công chúng, thành một hiện tượng đến giờ chưa lặp lại. Còn các truyện ngắn chín sớm trên báo Văn nghệ, Tiền phong của Linh ngày ấy đã khiến nhiều người cứ ngỡ đó là văn phẩm của người đàn bà từng trải.

Bìa tập thơ Chu du cùng ông nội

Tất cả 23 bài thơ trong Chu du cùng Ông nội đều in trong các tập trước, nhưng khi đứng cạnh nhau một cách hệ thống, chúng đã bất ngờ mang đến cho độc giả góc nhìn mới về bức chân dung tâm hồn của nhà thơ trẻ Vi Thuỳ Linh. Nó góp phần lý giải tại sao Linh lại tổ chức được những đêm thơ thành công, với sự hội tụ của rất nhiều tên tuổi danh tiếng trên các lĩnh vực khác nhau. Họ luôn trân trọng yêu quý, bao dung, sẵn sàng ủng hộ cô, bởi Linh bao giờ cũng làm việc với mục đích trong sáng; các sự kiện thực hiện rất hiệu quả với niềm nhiệt huyết đam mê - lúc nào cũng như "bốc cháy”. Và đằng sau vẻ cực đoan, Linh là người có chân cảm và chân tài, luôn sống trung thực và thẳng thắn.

Tập thơ chia làm 3 phần mạch lạc. Phần I: Giao cảm, 7 bài; Phần II: Giáng sinh con, 7 bài; Phần III: Đi đến ngày xưa, 8 bài. Một tập thơ thiếu nhi xinh xắn, thú vị bởi lối viết thơ rất chuyên nghiệp và còn bởi giữa lúc lối sống vô cảm đang có nguy cơ tràn lan, tác phẩm đã được ra đời với niềm khao khát mãnh liệt, luôn róng riết vì trẻ thơ như vẫn hằng róng riết vì thơ: " Tất cả người lớn/ Sống vì trẻ con” (Như là đồng dao)

Mặt khác, nhờ tài vẽ bìa và minh họa của Nguyễn Thị Hiền mà tập thơ càng thêm hấp dẫn: bắt mắt, dễ thương. Nữ họa sĩ gửi gắm vào đây rất nhiều tình cảm mến yêu, trân trọng. Chẳng thế mà trong triển lãm cá nhân đặc biệt dâng Đại lễ ngàn năm Thăng Long, tại Việt phủ Thành Chương, bên cạnh những câu văn, câu thơ đắt giá của các tác giả lớn: Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương… và các bậc lão làng: Nguyễn Tuân, Kim Lân, Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, các tài danh: Nguyễn Quang Thiều, Bảo Ninh, Đào Trọng Khánh…, bà đã ưu ái chọn câu thơ: Môi ngậm lời yêu để hóa thành bất tử của Vi Thuỳ Linh, trang trọng đưa vào một bức tranh sơn dầu của mình.

Giữa cuộc sống ào ạt, gấp gáp, lâu nay như một mặc định, nhiều người quen nghĩ rằng với lối sống hiện đại, Vi Thuỳ Linh thuộc nhóm nhà thơ đi đầu của khuynh hướng thơ tình yêu và họ đơn giản khuôn chúng vào thứ tình cảm giới tính thông thường. Khi cùng Chu du cùng Ông nội, độc giả bỗng nhận ra có một Linh khác, một Vi Thuỳ Linh thật đáng yêu của tuổi thơ và Chu du cùng Ông nội chính là món quà cô ấp ủ, nâng niu dành tặng cho những bé em thế kỷ XXI, những đứa trẻ không chỉ thông minh, ngây thơ, ngoan, tham ăn, tinh nghịch, lém lỉnh mà mang dấu ấn của thời đại công nghệ thông tin, chúng sâu sắc và trí tuệ. Tác giả của nó, lòng đầy tiếc nuối, luôn muốn mua một vé để về lại tuổi thơ huyền diệu (Cho tôi xin một vé về tuổi thơ, tên tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh).

Phần I: Giao cảm, là những bài thơ được viết khi Linh tuổi trăng tròn. Với tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, người thiếu nữ 16 ấy đã dâng cho đời những vần thơ đẹp và dịu dàng, báo hiệu một tài năng hé lộ: "Em ngắt vài cọng gió/ Thả lên dấu thời gian/ Vừng ơi! Em niệm chú/ Ước mơ về xênh xang/ Cơn mưa chiều gõ móng/ Rong ruổi về bên trời/ Lơ thơ một vạt nắng/ Đang dùng dằng… vỡ đôi” (Giao cảm)

Song, người đọc thấy thấp thoáng cá tính mạnh khi cô bé quyết không để mẹ cha buộc dây cương mà luôn muốn tự lập một mình cùng bạch mã tung bờm phi nước đại giữa cuộc đời đầy phong ba.

Có lần, trong một cuộc phỏng vấn của Đài Truyền hình Hà Nội, tôi đã cho rằng, thanh nữ bây giờ, so với thế hệ chúng tôi, họ có phần kém lãng mạn. Còn không ít người lại nhận xét: giới trẻ hiện nay lười đọc. Nhận xét ấy cơ bản là đúng, nhưng chỉ đúng ở những trường hợp khác. Vi Thuỳ Linh hiện đại tư duy, song không nằm trong thành phần "lười, kém” kể trên.

Phần II: Giáng sinh con, là khát vọng muôn thưở của người phụ nữ về niềm hạnh phúc giản dị, thiêng liêng. Đó là tổ ấm bình yên mà tâm điểm là những đứa trẻ đáng yêu hay ăn chóng lớn. Chính chúng khơi gợi và cô muốn chúng ta cùng thành thật hồn nhiên khi sống vì trẻ nhỏ, đôi lúc hãy để chúng dẫn dắt mình thức lại những phần đẹp đẽ, trong lành khi nhiều người tha hoá vì toan tính, lòng tham: "Bầy con tôi phúng phính/Răng sún má lông tơ/ Ham ăn như heo đói/ Dắt bố mẹ vào mơ”...

Thật bất ngờ, ở tuổi 20, Linh đã có một quan niệm rất nghiêm túc trong tình yêu. Đích của tình yêu là hôn nhân và những đứa con mang bức thông điệp của niềm hạnh phúc bất tận phải là kết quả của một tình yêu duy nhất trong cuộc hôn nhân lý tưởng: "Mẹ chờ con, hiện thân của tình yêu mẹ với người đàn ông duy nhất ngự trị trái tim tâm hồn mẹ”.

Thậm chí, trong lúc nhiều người đang có xu hướng sống một mình, hoặc chỉ muốn làm bà mẹ đơn thân, thì cô lại thích motif nếp nhà truyền thống con đàn cháu lũ. trong cô vẫn nguyên vẹn những quan niệm đạo đức kinh điển về sự thiêng liêng quan trọng của tình yêu, hạnh phúc gia đình: "Con ơi...con ơi!/ Không biết bao lần mẹ đặt tay lên bụng, gọi con/ Mẹ khao khát mang con, mặt trời đang phôi thai trong mẹ/ Mẹ muốn có thật nhiều mặt trời.../ Con ơi! Con ơi!/ Con đang bay ở đâu? Con đang bay ở đâu?/ Hãy theo tình yêu của Cha, đậu vào lòng Mẹ” (Những mặt trời đang phôi thai)

Điều đó đủ thấy, Linh không chỉ giàu tình cảm mà còn là người sống có trách nhiệm, với nghệ thuật, mọi người, với thiên nhiên, với tương lai thế giới. Cô công dân trẻ ấy lúc nào cũng đau đáu niềm nuối tiếc, xót xa cho những biểu tượng văn hóa thiêng liêng của kinh thành Thăng Long yêu dấu: "Sông ngày một cạn, hẹp lại hai bờ/ Còn đâu hướng gió cho thuyền lên thơ”, "Long Biên cầu già căng vai nhịp võng/ Cố gồng đường sáng cho người thờ ơ”(Thương sông Hồng). Cô hiếu thảo với ông bà, cha mẹ và luôn giữ lối sống nề nếp: dù bận thế nào thì chậm nhất 23 giờ có mặt ở nhà. Ngày nào cũng rửa bát, dọn dẹp, lau nhà. Đêm, cắt giấc ngủ viết đến 2 – 3 giờ sáng đã thành lệ 10 năm nay.

Phần 3: Đi đến ngày xưa, được viết khi tác giả ở cuối tuổi thanh niên. Khi đã đi nhiều, biết nhiều, ngộ ra giá trị đích thực của cuộc sống, khi đã biết cách học thua rồi, con người càng khao khát được trở về những năm tháng của tuổi thơ trong sáng thần tiên, để được sống với những kỷ niệm êm đềm tươi đẹp. Xưa nay không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông, tất cả chỉ còn là hoài niệm. Mọi mơ ước trong cô rồi chỉ là ước mơ thôi. Cuộc chạy về miền cổ tích dù cố gắng mấy cũng mãi khắc khoải, nhớ tiếc :"Bây giờ, bây giờ đây con không bao giờ muốn chạy đua với trăng, với ai nữa, dẫu là chính con/Con chỉ muốn chạy về tuổi nhỏ!/Bố bảo không thể ư, như Bố đã không thể kiệu con lên vai xem pháo hoa, cho con ngồi chân”cần cẩu, máy bay”trèo lưng "cưỡi ngựa/ Chiếc"Phượng Hoàng” cũ bán rồi” (Đi đến ngày xưa)

Sinh ra và lớn lên ở một giai đoạn bản lề, sau chiến tranh và trước thời kỳ đổi mới, khi đất nước rơi vào cơn khủng hoảng trầm trọng, đã trải qua quãng thời gian đói nghèo, vất vả nên Linh luôn biết quý trọng những kỷ niệm, biết coi trọng huyết thống và chắt chiu từng điều đẹp đẽ. Ở Linh có 2 con người: trong thẳm sâu cô là người tình cảm, mềm yếu rất đàn bà, bề ngoài lại bản lĩnh, cứng cỏi; cứ tưởng sôi nổi, vội vã, lại rất tận tình, chu đáo; cảm tính đấy mà vô cùng sâu sắc…Như một quy luật, mỹ học bao giờ chẳng là sự gặp gỡ giữa hai mặt đối cực. Gặp một cụ già còng lưng đạp xe, hay bước đi liêu xiêu trên đường, Linh lập tức ứa nước mắt nhớ Ông nội Vi Kiến Minh - người họa sỹ tài hoa, đã mất khi cô bé một tuổi rưỡi và trong cô dâng tràn niềm hiếu kính, khát khao được chia sẻ, bù đắp những ngày thiếu thốn nơi Ông: " Suốt đời con là người thiếu hụt/ Hễ thấy ông lão nào đạp xe, bách bộ con đều nhìn rất lâu và khóc/ Đây món ngon, thuốc bổ mời Ông, con đưa Ông chu du khắp nơi,toile trắng chất đầy, Ông tha hồ vẽ” (Chu du cùng Ông nội). Rồi tưởng tượng được nắm tay đưa Ông về quê mình, về lại cội nguồn Cao Bằng, tới Paris kinh thành Ánh sáng, chốn Thiên đường, trong cõi mơ trên cánh đồng hoa thơ ấu, trong ngan ngát mùi vị quê hương xứ sở: "Mùi hoa, mùi rau, mùi xôi bảy màu, có mùi rừng núi gió cây/ Chim yến, nhạn dệt những đường bay/ Khói lam, áo chàm, rượu bát/ Bánh khảo giấy hồng nhuộm vân tay”.

Và cũng chỉ cần thoáng chút hương bưởi thôi đã thức dậy trong Linh nỗi nhớ thương da diết Bà nội kính yêu- người phụ nữ suốt đời chỉ biết như mặt trăng tỏa sáng vì con, vì cháu mà chưa được hưởng một ngày sung sướng: "Khổ thân bà, vắng Ông, chèo chống đàn con bốn đứa/ Những tấm ảnh Bà gày xanh, bệnh tật mà vẫn dẻo dai côu đựng, nỗ lực nuôi các con nên người/ Khi còn trẻ ngất đi vì đói/ Lúc về già lại phải ăn kiêng” (Trên đường làng đá xanh)

Có lẽ luôn ý thức được rằng, chữ bầu lên nhà thơ nên ngôn từ trong thơ của Vi Thuỳ Linh được chọn lựa tinh tế, chứng tỏ tài "điều binh khiển tướng” điệu nghệ. Nếu tất cả các danh từ chỉ các bậc cao niên mà cô yêu quý như Ông, Bà, Bố, Mẹ, (và cả Anh trong những tập khác) đều được nữ thi sỹ trân trọng viết hoa, thì để tạo ra những bài thơ chất lượng cao cho các bé, Vi Thuỳ Linh gắng tìm ra lối đi riêng. Biết mình là một diễn viên tồi trên sân khấu phi lý của cuộc đời, "bởi không bao giờ hóa trang để nhập vai người khác (Tôi), cô không chọn cách đóng giả những chú bé ngây thơ, mà chọn lối viết chuyên nghiệp, hiện đại. Từ điểm nhìn của chính mình, cô thoải mái đối thoại và độc thoại thành thực với quá khứ, với lũ trẻ hôm nay và ngày mai. Thơ thiếu nhi của Vi Thuỳ Linh luôn được biểu đạt bằng một cách cảm, cách nghĩ thông minh và ngôn ngữ trong sáng, tươi mới do được kết hợp và chưng cất kỹ càng từ ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ trẻ thơ, nên khi tất cả đồng loạt phát sáng thì lớp ngôn từ giản dị mà gần gũi qua nhiều thể loại: thơ 4 chữ, 5 chữ, 8 chữ sóng đôi, thơ tự do và đồng dao tạo nên nhiều câu thơ mà lũ trẻ yêu thích.

Đồng thời, việc sử dụng đắc địa thủ pháp nhân hóa cũng góp phần quan trọng tạo ra được hệ biểu tượng nghệ thuật rất mới. Nhờ chúng mà vật vô tri vô giác bỗng trở nên lung linh huyền ảo, tạo nên cảm giác: thế giới nghệ thuật trong thơ thiếu nhi của Vi Thuỳ Linh dường như được dệt bằng nhiều sợi tơ mong manh của thứ tình cảm tinh túy, nguyên khôi. Nếu thơ là tiếng nói tình cảm thì sự thành công của Chu du cùng Ông nội trước hết là bởi cả 23 bài thơ tâm đắc của cô đều thấm đẫm "những tình cảm thân thương nhất với mỗi chúng ta: tình cảm gia đình, mơ ước tuổi thơ, khát vọng vươn tới những điều tốt đẹp…”(1). Ngoài tình cảm chân thành và mãnh liệt, để có những bài thơ hay cho thiếu nhi, người viết lại phải biết nhìn đời bằng con mắt xanh non mới lạ của trẻ thơ, sao cho "mắt sông biết thao thức”, "sóng biết gọi nhau về”, mảnh trăng biết co mình lại”…Còn những quả mướp trên giàn cao như cũng biết đợi chờ và khát khao dâng hiến: " Lẳng lơ giàn mướp/ Đợi nấu cua đồng” (Như là đồng dao).

Thành công trong Chu du cùng Ông nội một phần còn do tác giả đưa vào rất nhuyễn chất liệu dân gian. Bên cạnh lối hát đồng dao, những trò chơi dung dăng dung dẻ, những chú cuội cô Hằng, những đêm Trung thu rộn ràng tiếng trống, cánh diều, cánh chim tuổi thơ…, trong nhiều bài thơ của cô còn xuất hiện một cách rất tự nhiên những phi thuyền đưa bé bay vào vũ trụ, đêm Noel, những khúc giao hưởng, những bản Sérénade… Bên cơ man nào tiên nữ là sự có mặt của bầy thiên thần đang tha thướt gọi mời. Bên cạnh ngôn ngữ dân dã là những câu văn của thời @ trẻ trung vẫn trĩu nặng âu lo thời hiện đại: " Người ta đang lý giải El Nino thiên nhiên/ Mà lãng quên một El nino xoay vần nhân tình thế thái/Sự tiến hóa làm con người xa nhau hơn/ Thậm chí có ít thời gian để cười và càng ít khóc” (Đôi mắt lửa Puskin)

Rõ ràng, cái mới chân chính chỉ có thể ra đời khi hội tụ được toàn bộ giá trị truyền thống với những tinh hoa của nhân loại.

Và sự hiện đại hóa thơ thiếu nhi của Linh còn nằm ở ý thức về việc đổi mới ngôn ngữ của cô. Linh thật tinh tế khi phát hiện được một vạt nắng dùng dằng vỡ đôi, mùa Thu đi bạc tóc và đặc biệt cô cũng có được cách cấu tạo từ rất mới như "trời rất Thu, trời sẽ Đông” làm tôi nhớ cách tạo từ của Lê Đạt- một trong những nhà thơ tiên phong cách tân thi ca dân tộc với kiểu kết hợp ngôn từ rất lạ: rất hồ, rất ô, rất đường, rất em,…

Đọc tập thơ thiếu nhi của Vi Thuỳ Linh, người ta dễ dàng nhận thấy không thiếu những bài mang đầy tính triết lý và rất gần với văn xuôi. Trẻ em khôn sớm thời nay không chỉ hiểu mà còn thích những câu thơ sau đây của tác giả: " Tại sao nước mặn chiếm 3 phần tư trái đất/ Tại sao con người ít cười hơn khóc” (Những đối lập).

Và đây chính là mặt mạnh, đồng nghĩa tác giả sẽ côu những "khổ nạn” của một người dám một mình tiến lên phía trước trên con đường độc đạo, sẵn sàng dấn thân cho nghệ thuật. Nhưng với Chu du cùng Ông nội, Linh thật sự là người hạnh phúc. Bởi tác phẩm của cô chắc chắn sẽ được đông đảo công chúng trân trọng đón nhận, là một trong không nhiều tập thơ thiếu nhi hôm nay muốn đọc.

T.T.T

* Giảng viên Bộ môn Văn học Việt Nam, Học viện Báo chí – Tuyên truyền.

(1). Lời giới thiệu tập thơ Chu du cùng Ông nội, NXB Kim Đồng, H., 2011, trang 3.